VAI TRÒ CỦA CÁC CHÚA TRỊNH TRONG VIỆC CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII – XVIII

VAI TRÒ CỦA CÁC CHÚA TRỊNH TRONG VIỆC CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII – XVIII Đồng Thị Hồng Hoàn I/ Ý nghĩa nghiên cứu và tình hình kinh tế - xã hội Đại Việt nửa sau thế kỷ XVI. Vào thời điểm hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới mà trọng tâm là phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì thế công tác nghiên cứu kinh tế - xã hội cũng như tìm hiểu về kinh tế - xã hội thế kỷ XVII – XVIII, thông qua những chính sách cụ thể mà các chúa Trịnh đã đem ra thực thi nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội Đàng Ngoài sẽ là có ý nghĩa thực tiễn để chúng ta nhìn nhận lại nền kinh tế nông nghiệp truyền thống vốn mang nặng tính tự cung, tự cấp xưa; nghiên cứu cơ cấu tổ chức xã hội Việt Nam trong các làng xã cổ truyền, tồn tại bền chặt hàng ngàn năm ở nước ta với cả tính tích cực và hạn chế của nó. Đồng thời trên cơ sở đó, có thể đánh giá về cách thức điều hành kinh tế, xã hội của những nhà quản lý tài năng trong lịch sử; điều chỉnh nhận thức đúng đắn, phù hợp, biện chứng giữa các yếu tố truyền thống với hiện đại trong công cuộc đổi mới hôm nay và tương lai. Tượng thái vương Trịnh Kiểm Lịch sử Việt Nam trải dài hàng ngàn năm với chế độ phong kiến quân chủ từ thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, nhưng thế kỷ XVII - XVIII là giai đoạn lịch sử hết sức đặc biệt vừa có Vua lại có cả Chúa. Xem xét lại thời kỳ này, ta thấy rằng chính thể nhà Lê đã quá suy yếu(1), vì thế nhà Mạc nổi loạn cướp ngôi. Nguyễn Kim – người có công khôi phục nhà Lê, không may Nguyễn Kim mất sớm, quyền lực rơi vào con rể Trịnh Kiểm- con người tài năng cầm quân và chỉ huy xuất chúng. Không phụ lòng tin của Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm(2)- đã tạo dựng uy quyền, một thể thức chính quyền lưỡng thể quản lý đất nước (không phải là hai quyền lực), mà là chế độ tiền chính quyền Tổng thống(3) ở Việt Nam. Điều này cho thấy chúng ta cần phải đào sâu nghiên cứu nhiều hơn nữa giai đoạn phức tạp này của lịch sử dân tộc, mà đến nay vẫn còn nhiều những đánh giá trái chiều chưa thống nhất, và đúng mức. Chính quyền nhà Lê từ giữa thế kỷ XVI đã khủng hoảng, kinh tế -chính trị - văn hoá xã hội suy thoái và thối nát. Nhà Mạc nhân cơ hội đó cướp ngôi nhà Lê, nhưng chưa được giới triều chính ủng hộ, đòi hỏi phải tìm một hướng đi mới cho lịch sử dân tộc. Trước yêu cầu đó, Nguyễn Kim có sáng kiến khôi phục nhà Lê. Chưa được bao lâu thì Nguyễn Kim mất, con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm nắm hết binh quyền trong tay, ông và hậu duệ đã từng bước thực hiện những biện pháp, đặc biệt là thao túng quyền lực quân đội, sau đó là lĩnh vực kinh tế - xã hội để củng cố và phát triển đất nước. Vai trò và công lao của của Trịnh Kiểm và các vị chúa Trịnh sau này đã được ghi nhận trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa - tư tưởng. Bản đồ Phố Hiến thế kỷ XVII – XVIII do người Pháp vẽ thể hiện khu thương điếm của người nước ngoài Chính thể Lê -Trịnh song song tồn tại và điều hành quốc gia, nhiều sử gia cho rằng chúa Trịnh đã tiếm quyền và lấn át vua Lê “chính sự về tay họ Trịnh" [9, tr.58]. Nhưng trong hoàn cảnh đó, liệu có một thể chế chính trị cần thiết nào khác phù hợp hơn cho sự tồn tại đất nước vào lúc bấy giờ?(!) Hơn nữa, trong suốt hơn 200 năm đó, dòng dõi các chúa Trịnh đã không ngừng đóng góp công lao, tài trí nhằm cố gắng đưa đất nước thoát khỏi sự bế tắc, thúc đẩy Đại Việt phát triển. Vì thế, chúng ta cần thiết phải tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá khách quan hơn vai trò, vị trí cũng như những đóng góp to lớn của các chúa Trịnh trong thời kỳ này. Trong 2 thế kỷ XVII - XVIII, các cuộc chiến tranh giữa các thế lực và khởi nghĩa lớn nhỏ đã diễn ra liên tục, đã làm cho đời sống chính trị quốc gia Đại Việt biến đổi phức tạp khôn lường, chi phối các mặt khác của đời sống nhân dân lúc bấy giờ. Chính vì thế, các nhân tố chính trị đã thu hút sự chú ý nhiều hơn của các nhà nghiên cứu lịch sử. Những thông tin về mặt kinh tế - xã hội bị xem nhẹ, để lại những "khoảng trống" trong việc khôi phục lại bức tranh quá khứ của lịch sử dân tộc. Trong khi đó, giai đoạn này lại diễn ra một thực tế tưởng chừng là nghịch lý: thời kỳ khủng hoảng chính trị xã hội là triền miên nhưng kinh tế Đại Việt lại phát triển với nhiều yếu tố mà biểu hiện rõ nhất là sự hưng khởi và thịnh đạt của một số trung tâm đô thị như là một hiện tượng đột biến trong nền kinh tế truyền thống của người Việt. Những chính sách quản lý và phát triển kinh tế của các chúa Trịnh về thương nghiệp nói riêng, về kinh tế nói chung là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến bức tranh kinh tế - xã hội Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII - XVIII. II/ Những nhân tố tác động đến kinh tế - xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII – XVIII Nhà Trịnh nắm quyền hành đất nước Đại Việt trong sự hỗn loạn của chính trị - xã hội kinh tế của thời kỳ này. Thời thịnh trị của nhà Lê là thời kỳ vua Lê Thánh Tông(*) trị vì (1460 – 1497). Bước sang thế kỷ XVI và đặc biệt là nửa cuối thế kỷ XVI, Đại Việt đã lâm vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Chính sách "quân điền" dần bị phá sản, đồng nghĩa với nó là làm cơ sở cho chế độ tư hữu về ruộng đất ngày càng mở rộng. Sự phát triển chậm chạp của kinh tế công thương nghiệp không tạo nên được các trung tâm kinh tế đô thị. Thăng Long, trung tâm đô thị quan trọng nhất đã không đủ tác động lên một nền kinh tế quốc gia mà chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, vốn dĩ đã hết sức khó khăn, lại bị thiên tai liên miên, gây nên hậu quả nghiêm trọng trên cả nước. Trong khi đó ở các địa phương, các thế lực phong kiến ngày càng lớn mạnh và luôn tìm mọi cách cát cứ. Kết quả là ngày càng xuất hiện nhiều các cuộc nổi dậy chống lại triều đình ở khắp các địa phương. Triều đình cũng bị chìm đắm trong sự suy tàn bởi hàng loạt những cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Mô hình tập quyền quan liêu không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế, xã hội và chính trị. Triều đình nhà Lê ngày càng bất lực trong việc điều hành đất nước(4). Sau khi nhà Lê sơ suy thoái từ giữa thế kỷ XVI, các tập đoàn phong kiến nổi lên khắp nước, tạo lên cục diện Nam - Bắc triều và sau đó là giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh. Đây chính là hệ quả của quan hệ Hoàng quyền - Thần thuộc mà nhà Lê, từ Lê Thái Tổ đã xây dựng. Ta thấy, ngay từ khi cuộc chiến Nam - Bắc triều còn đang tiếp diễn, trong nội bộ Nam triều đã nảy sinh mầm mống chia rẽ. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị sát hại, vua Lê trao mọi quyền binh cho Trịnh Kiểm. Hai họ Trịnh - Nguyễn vốn đã được gắn kết bởi mục đích chung giúp vua Lê dựng lại cơ nghiệp, được gắn kết bởi quan hệ gia đình (khi Nguyễn Kim chọn Trịnh Kiểm là con rể), đến đây bị ran nứt. Để thâu tóm mọi quyền lực, Trịnh Kiểm tìm cách loại bỏ mọi ảnh hưởng của họ Nguyễn. Mâu thuẫn giữa hai thế lực đến độ gay gắt khi người con trai đầu của Nguyễn Kim là Tả tướng Nguyễn Uông bị giết hại. Em trai của Uông là Nguyễn Hoàng đã phải nhờ chị gái là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho được vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Việc ra đi của Nguyễn Hoàng, như lịch sử đã cho thấy, không chỉ để bảo toàn tính mạng, mà là thực hiện bước mở đầu cho một chiến lược lâu dài: xây dựng lực lượng chống lại họ Trịnh. Đất Thuận Hóa trở thành nơi dấy nghiệp của họ Nguyễn(5)). Sự chia rẽ trong nội bộ triều Lê Trung Hưng thế kỷ XVII - XVIII và tình trạng chia cắt đất nước thành hai tiểu quốc Đàng Trong(6) - Đàng Ngoài sau đó như kết quả của những mâu thuẫn xung đột phe phái, những ý đồ hành động cá nhân... mà cụ thể là việc tranh giành quyền bính giữa hai phe Trịnh - Nguyễn. Vì thế, ngay sau khi thay cha trấn thủ Thuận Quảng, Phúc Nguyên cho sửa thành lũy, sắp đặt lại hệ thống quan ải, cải tổ bộ máy cai trị. Đối với nhà Lê, khác với cha, Nguyễn Phúc Nguyên tìm mọi cách thoái thác việc cống nạp. Tình hình trở nên căng thẳng vào năm 1620 khi Trịnh Tráng sai Đô đốc Nguyễn Khải đem năm nghìn quân đến cửa biển Nhật Lệ để uy hiếp. Có lúc, nhân họ Trịnh rối ren (Trịnh Tùng chết năm 1623), Phúc Nguyên đã toan cất quân đánh ra Bắc, nhưng rồi lại thôi. Trịnh Tráng lên thay Trịnh Tùng thi hành chính sách cứng rắn với họ Nguyễn. Năm 1627, chiến tranh đã nổ ra, do đó đất nước bị chia cắt thành hai miền. Vùng đất từ Đèo Ngang trở ra Bắc dưới quyền cai trị của chính quyền Lê - Trịnh gọi là Đàng Ngoài. Đất Thuận - Quảng được gọi là Đàng Trong. Trong vòng 40 năm, quân Trịnh đã 6 lần tấn công với quy mô lớn vào Đàng Trong các năm 1627, 1633, 1643, 1648, 1661 và 1672. Nhìn toàn cục lực lượng quân Trịnh mạnh hơn. Có thời kì, quân Trịnh đã huy động tới 20 vạn quân thủy bộ với 600 chiến thuyền, 500 thuyền vận tải và 500 voi cho một trân đánh. Trong khi đó, quân đội thường trực của Đàng Trong chỉ có 4 vạn bộ binh với 200 chiếc thuyền. Nhưng do phải điều động quân đi xa và gặp nhiều khó khăn trước hệ thống lũy phòng ngự kiên cố của quân Nguyễn nên quân Trịnh không lần nào giành quyền thắng lợi quyết định. Năm 1655, quân Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài. Cuộc chiến kéo dài 5 năm, quân Nguyễn mới bị đẩy lui khỏi đất Nghệ An. Sau 7 lần đánh nhau, có lúc đã lôi kéo cả người nước ngoài vào cuộc, mà kết cục không bên nào thôn tính được bên nào. Vào năm 1672 cuộc chiến tranh chấm dứt. Sông Gianh trở thành ranh giới tự nhiên giữa hai miền. Nếu nói về tương quan lực lượng giữa hai bên thì có sự chênh lệch. Họ Trịnh có nhiều thuận lợi hơn. Ngay từ những trận đầu tiên họ Trịnh đã huy động được một lực lượng quân đội lớn hơn. Số quân thủy bộ có tới 20 vạn (bộ binh 12 vạn), 500 thớt voi, 600 thuyền chiến lớn, 500 thuyền tải lương. Riêng trong trận đánh nhau lần thứ 7 vào năm 1672, quân Trịnh có 1000 chiến thuyền trên sông Gianh và cửa Nhật Lệ, và quân lính có 10 vạn, nói tăng lên là 18 vạn. Có được những lực lượng trên là do họ Trịnh có cả một miền đồng bằng rộng lớn từ Thanh - Nghệ trở ra Bắc, là một hậu phương lớn cung cấp sức người sức của cho cuộc chiến tranh. Vì vậy, nhìn bề ngoài thì đây là cuộc chiến tranh không phân thắng bại, nhưng xét theo mục đích thì chính quyền Lê - Trịnh đã thất bại, bởi họ Nguyễn đã thực hiện bước đầu ý đồ của mình trong việc tách Đàng Trong ra thành một giang sơn riêng. Cuộc tranh chấp giữa hai tập đoàn phong kiến này đã gây ra nhiều tổn thất cho nhân dân, kéo dân tộc vào cuộc chiến tranh tương tàn và phân chia đất nước ra làm hai, lấy sông Gianh làm giới tuyến, gây ngăn cách cho nhân dân hai miền suốt bao năm trời. Chiến tranh Nam - Bắc Triều và cục diện Trịnh - Nguyễn phân tranh cộng với các cuộc nổi dậy của nông dân khiến cho chính quyền Đàng Ngoài phải huy động một lực lượng quân đội lớn và lâu: “lính nội binh đến 60 tuổi, lính ngoại binh 55 tuổi mới được miễn” [91, tr.110], nhiều khi “tuyển lính có lúc một nhà lấy đến 5, 6 người” [42, tr.221]. Có thể nói, chiến tranh đã chi phối tất cả những chính sách nhằm củng cố và phát triển Đàng Ngoài của các chúa Trịnh, bởi trong suốt thời kỳ nắm quyền điều hành quốc gia Đàng Ngoài, các chúa Trịnh phải duy trì một chính quyền theo kiểu quân sự, ngay cả những chính sách “mở cửa” thông thương với nước ngoài cũng nhằm mục đích phục vụ cho chiến tranh, do đó đã hạn chế cho việc Nhà nước thực hiện các chính sách về kinh tế - xã hội. Hơn hai thế kỷ điều hành đất nước, các chúa Trịnh luôn phải đối mặt với thế lực họ Nguyễn Đàng Trong ngày càng lớn mạnh mà họ Trịnh còn phải chống lại các cuộc khởi nghĩa nông dân. Những cuộc nổi dậy của nhân dân Đàng Ngoài bắt đầu nổ ra lẻ tẻ từ cuối thế kỷ XVII. Đến thế kỷ XVIII, những cuộc bạo động với quy mô nhỏ nổ ra cả ở miền xuôi và miền ngược. Năm Giáp Ngọ (1714), người vùng biển Yên Quảng (Quảng Ninh) nổi dậy bạo động. Lưu thủ Văn Đình Nhậm đàn áp, bắt và giết hơn 70 người. Năm Tân Sửu (1721), thổ tù người Thái là Đèo Mỹ Lâm ở châu Chiêu Tấn (nay thuộc Sình Hồ tỉnh Lai Châu) nổi lên chống lại triều đình. Những người nổi dậy đã chiếm lấy Lai Châu làm căn cứ, sau đó đánh sang châu Quỳnh Nhai. Họ Trịnh đã cử ngay quân lên đàn áp và chiêu dụ nhưng không được nên năm sau phải cử Nguyễn Thành Lý đem binh lên tấn công. Lực lượng quân nổi dậy lúc này bị suy yếu do những mâu thuẫn nội bộ phải chạy tản mát lên vùng biên giới Việt Trung. Năm 1724, người dân thiểu số ở Cao Bằng cũng theo nhau nổi dậy, Đốc trấn Nguyễn Thọ phải xin quân Thái Nguyên sang chi viện để đàn áp lực lượng nổi dậy. Năm Giáp Dần (1734), thổ tù thiểu số ở Lạc Thổ, trấn Thanh Hóa (nay thuộc Lạc Sơn, Hòa Bình) cũng nổi dậy chống lại chính quyền họ Trịnh. Lưu thủ Nguyễn Thọ Trường phải cầu xin viện binh của Triều đình để đàn áp. Đáng kể nhất trong những cuộc nỗi dậy đầu thế kỷ XVIII, là cuộc nổi dậy của nhà sư Nguyễn Dương Hưng vào tháng 9 (âm lịch) năm Bính Thìn (1736). Lúc này ở vùng Thái Nguyên và Sơn Tây, người dân đang sôi sục khí thế chống đối triều đình. Sách sử ghi lại rằng “trộm cướp các xứ nổi lên như ong”. Chính quyền họ Trịnh lo sợ nên đã phải “đặt đồn hỏa hiệu ở trên các núi, bắt dân ngày đêm canh gác”. Nguyễn Dương Hưng đã tập họp hàng ngàn người nông dân nghèo, lưu vong cùng những tầng lớp bất mãn với chế độ của họ Trịnh nổi dậy chống lại chính quyền. Những người khởi nghĩa đã lấy vùng núi Tam Đảo làm căn cứ rồi mở rộng ảnh hưởng ra các vùng lân cận. Thủ lĩnh Nguyễn Dương Hưng còn xưng vương hiệu và sắp đặt quan chức khẳng định sự đối đầu với chính quyền nhà Lê - Trịnh. Tháng chạp năm Mậu Ngọ (1738), các tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật, Lê Duy Quý, Lê Duy Chúc cùng một số triều thần là Phạm Công Thế, Vũ Thước, Lại Thế Tế mưu đồ khởi binh, đốt Kinh thành, lật đổ họ Trịnh. Kế hoạch bị bại lộ, Phạm Công Thế bị giết, những người khác phải chạy trốn. Lê Duy Mật đến Thanh Hóa, vận động nông dân khởi nghĩa chống lại họ Trịnh. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn ở thế kỷ XVIII, kéo dài hơn chục năm. Từ giữa thế kỷ XVIII, phong trào khởi nghĩa của nông dân ở Đàng Ngoài đã thực sự bùng nổ. Ban đầu là những cuộc nổi dậy nhỏ lẻ nhưng lan nhanh như một phản ứng dây chuyền tại các vùng quê từ đồng bằng đến miền thượng du. Người dân An Lịch do Đỗ Tế khởi xướng nổi dậy chiếm giữ trấn Sơn Dương (Tuyên Quang), người xã Bình Nho theo Nho Bồng giữ huyện Phượng Nhãn (Bắc Giang). Một người dân ở xã Ngân Già là Bắc lôi kéo mọi người nổi dậy chiếm giữ huyện lỵ Nam Chân. Ở Thái Bình, người xã Dũng Thủy chiếm giữ huyện Thư Trì, người xã Hoàng Xá chiếm giữ huyện Đông Quan. Trong giai đoạn 1739 - 1740, phong trào ngày càng trở nên sôi nổi(7). Khởi nghĩa nông dân làm cho các chúa Trịnh khó khăn trong việc đưa ra cũng như thực hiện những chính sách kinh tế - xã hội phù hợp. Triều đình buộc phải đem quân đội đàn áp để ổn định tình hình. Bất cứ ở phương diện nào cũng dẫn đến sự tổn thất về người và của, cả của Triều đình và các nghĩa quân. Hệ quả tiêu cực của nó là làm cho một lượng lớn nhân khẩu bị hao hụt, chưa kể đến tình trạng phiêu tán kéo theo đó, khiến cho nền kinh tế bị đình đốn. Đây là một bài toán khó mà trong suốt thế kỷ XVII - XVIII, các chúa Trịnh lúng túng không tìm ra được đáp án đúng nhất. Vấn đề ngoại giao, từ thế kỷ XVI nhiều nước phương Tây đến Đàng Ngoài xin được đặt quan hệ ngoại giao, quốc gia Đại Việt phải đối diện với một làn sóng văn minh mới: Năm 1523, vua Bồ Đào Nha đã gửi một bức thư đến chính quyền Đại Việt chính thức xin thông thương và truyền đạo; Năm 1533, giáo sĩ người Bồ Đào Nha đã tới Đàng Ngoài truyền đạo, mở đầu cho quan hệ bang giao giữa Đại Việt với các nước phương Tây; Thế kỷ XVII, người Hà Lan, người Anh và người Pháp cũng lần lượt đến Đàng Ngoài xin được thông thương và truyền giáo. Nếu như người Hà Lan và người Anh đặt trọng tâm vào mở rộng thị trường buôn bán thì người Bồ Đào Nha và người Pháp lại chú ý nhiều hơn đến việc truyền đạo. Những hoạt động của người Pháp mập mờ giữa lĩnh vực tôn giáo và thương mại, “họ có thương điếm nhưng không thể nói rành mạch là dùng để buôn bán hay nhằm mục đích truyền giáo” [8, tr.29]. Người Bồ Đào Nha cũng vậy, ảnh hưởng thương nghiệp mờ nhạt, chủ yếu là việc truyền đạo. Thương điếm của Hà Lan được lập ở phố Hiến từ năm 1637, duy trì đến năm 1700 và ở Kẻ Chợ từ năm 1644 đến năm 1700. Mặc dù thời gian hoạt động ngắn hơn so với người Hà Lan nhưng thương điếm của người Anh cũng tồn tại suốt 25 năm (1672 - 1697). Năm 1680, Công ty Đông ấn của Pháp cũng được phép lập thương điếm và hoạt động thương mại liên tục trong 5 năm (1681 - 1686). Bên cạnh đó, do công việc truyền giáo mà các giáo sĩ phương Tây lại càng có khả năng cư trú lâu dài và hoà nhập sâu hơn vào đời sống của người dân Việt. Từ năm 1533 đến năm 1659, “ở Đàng Ngoài đã có tới 331 nhà thờ, riêng Sơn Nam là 183” [86, tr.238]. Đến thế kỷ XVIII thì đã có hàng chục vạn tín đồ người Việt theo Thiên Chúa giáo. Kết quả là họ đã hình thành một cộng đồng người ngoại quốc ở Đàng Ngoài. Vì thế, việc cho phép thông thương và truyền đạo đồng nghĩa với việc chính quyền Đàng Ngoài thừa nhận sự du nhập một nền văn minh mới từ phương Tây. Thực tế đó đã đặt ra cho các chúa Trịnh một trong hai sự lựa chọn, hoặc là cố gắng “bảo vệ truyền thống”; hoặc là tiếp nhận nền văn minh mới lạ và tiên tiến đó, đưa dân tộc hòa nhập với xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại: một cuộc đấu tranh giữa cái mới với cái cũ và thay thế những giá trị đã trở nên lạc hậu. Có thể nói, sự du nhập của văn minh phương Tây sẽ là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến những chính sách điều hành quốc gia của các chúa Trịnh trong suốt thế kỷ XVII - XVIII. Vai trò quyết định của các chúa Trịnh trong việc điều hành đất nước được khẳng định khi họ Trịnh bước lên vũ đài chính trị ít nhất là vào năm Kỷ Hợi (1539) , bắt đầu từ Trịnh Kiểm - một nông dân nghèo nắm quyền binh trong công cuộc Trung hưng nhà Lê [45, tr.9]. Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí, nhà sử học Phan Huy Chú ghi lại: “Họ Trịnh, tên là Kiểm, người làng Sóc Sơn huyện Vĩnh Phúc (Thanh Hóa), nhà ở làng Biện Thượng. Lúc hàn vi nghèo túng thường đi ăn trộm để nuôi mẹ. Lớn lên ông khỏe mạnh hơn người, theo Hưng Quốc Công (Nguyễn Kim), Hưng Quốc Công cho là khác thường, gả con gái cho, cho coi binh mã, cất nhắc phong đến tước hầu. Ông có nhiều chiến công. Lại sai sang Ai Lao đón Trang Tông. Vua thấy ông trạng mạo khác thường, phong làm đại tướng quân, lên đến tước quận công. Năm ấy mới 37 tuổi, Hưng Quốc Công mất, ông lên thay điều khiển tướng sĩ, được phong làm tiết chế các dinh thủy bộ ở các sứ, Thái phó Lượng Quốc Công, kiêm nắm các việc quân quốc trọng yếu. Lại được phong Thượng tướng Thái Quốc Công, nắm quyền 25 năm, thọ 68 tuổi” [11, tr.176]. Vậy là Trịnh Kiểm theo Nguyễn Kim để phù Lê diệt Mạc vào năm 31 Tuổi và chỉ sau 6 năm ông được Nguyễn Kim tin dùng, giao cho trọng trách tối cao, điều khiển binh tướng. Lần theo những dòng sử cũ, có thể cho rằng Trịnh Kiểm đi theo công cuộc Trung hưng có thể sớm hơn. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Kỷ Hợi, năm thứ 7 (1539), vua phong đại tướng quân Trịnh Kiểm làm Dực Quận Công” [42, tr.118]. Nghiên cứu sử sách, ta thấy Trịnh Kiểm là người có năng lực xuất chúng, bởi từ khi ông được phong làm Dực Quận Công, đang dưới trướng của Thái tể Nguyễn Kim, ông đã 2 lần cầm quân chiến đấu và cả hai lần đều đại thắng. Công cuộc Trung hưng do Nguyễn Kim đề xướng và gây dựng mới được 10 năm, thì Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Trung hậu hầu Dương Chấp Nhất ám hại. Vì thế Lạng Quốc Công Trịnh Kiểm đã kế tục sự nghiệp của nhạc phụ mình một cách xứng đáng, không phụ lòng tin cẩn, đề cử và trọng dụng của Nguyễn Kim. Ngay sau khi Thái sư Hưng Quốc Công qua đời (1545) vua Lê Tung Tông phong Dực Quận Công làm Lạng Quốc Công, “phàm binh quyền ở ngoài khổn, công việc nhà nước, mưu lược trù tính, phong tước, bổ nhiệm quan lại xa gần đều được tùy tiện giải quyết, rồi sau mới tâu lên vua” [99, tr.3] và “phàm có đánh dẹp đều ủy cho Thái sư Lạng Quốc Công Trịnh Kiểm thống lĩnh”[5, tr.72]. Vậy là chỉ sau chục năm kể từ khi cùng Hưng Quốc Công theo Trang Tông, và sau 6 năm từ khi Trịnh Kiểm đi đón vua ở Ai Lao, Trịnh Kiểm đã được trọng dụng, đứng đầu trăm quan để cùng vua lo việc nước. Cuộc kinh dinh đang còn dang dở thì vua Trang Tông qua đời ở tuổi 34, độ tuổi “nhi lập” (tam thập nhi lập). Mọi công việc của đất nước, giờ đây đè nặng lên vai Lạng Quốc công, vì Trịnh Kiểm phải phò tá ông vua mới 14 tuổi - Lê Trung Tông. Nói cách khác, từ giờ phút đó, ông phải gánh vác trọng trách, đứng đầu trăm quan để lo toan mọi công việc của đất nước. Trịnh Kiểm càng khẳng định rõ tài năng khác thường, ông ngày càng tài giỏi trong mưu lược, điều binh, khiển tướng, đánh đông dẹp bắc, không riêng gì cõi đất ái Châu là bãi chiến trường - mà các đất Sơn Nam, Hồng Châu, Khoái Châu, Lạng Sơn, Kinh Bắc, Hoan Diễn cũng đã diễn ra những cuộc chiến ác liệt giữa quân Lê và quân Mạc. Khiến cho phạm vi hoạt động của quân Mạc ngày càng thu hẹp, lực lượng của quân Mạc ngày một yếu dần. Rõ ràng, từ năm 1539 thì quyền hành cai trị đất nước của vua Lê hầu hết đã bị tước đi. Sau đó, những người kế nhiệm Trịnh Kiểm đã tìm mọi cách thâu tóm hết quyền lực về tay họ Trịnh. Năm 1599, Trịnh Tùng được vua Lê (và buộc vua Lê) tấn phong làm Đô tướng tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự Tả tướng Thái úy Trương quốc công Đô nguyên súy tổng quốc chính thương phụ Bình An Vương [42, tr.205]. Bắt đầu từ đây, họ Trịnh chính thức được phong vương và có quyền thế tập, được lập phủ chúa riêng. Quyền hành thực tế đã nằm trong tay họ Trịnh. Năm 1664, vua Lê còn buộc phải chấp nhận cho các chúa Trịnh: “từ nay trở đi đến lễ không cần xưng tên, không phải lạy, khi hầu thì đặc cách đặt giường gỗ bên tả ngự điện để tỏ ra điển lễ” [42, tr.268]. Tiếp đó, những nghi lễ cũng được quy định riêng cho phủ Chúa thể hiện quyền hành của các chúa Trịnh. Năm 1673, Triều đình có quy định: “từ nay về sau, Vương phủ ban ra lệnh gì thì gọi là “lệnh dụ”, thần dân dâng khải thì nói là “cẩn khải”; khi Phó Vương ra lệnh thì gọi là “lệnh chỉ”, ai dâng khải lên thì nói là “cẩn khải” [42, tr.295]. Để thâu tóm quyền lực, các chúa Trịnh duy trì một chính quyền quân sự, trong đó những chức vụ cốt yếu đều do người họ Trịnh nắm giữ. Chẳng hạn, thời kỳ Trịnh Tráng nắm quyền, ông đã bố trí cho các con mình đi trấn giữ các nơi trọng yếu: Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc trấn thủ ở Sơn Nam; Thái bảo Phù quận công Trịnh Lịch trấn thủ Sơn Tây; Quỳnh nham quận công Trịnh Lệ trấn thủ Kinh Bắc; Thiếu úy Hoa quận công Trịnh Sầm trấn thủ Hải Dương…” [103, tr.252]. Khi chính quyền Đàng Ngoài được dân sự hóa thì phủ Chúa cũng đã xây dựng thành cơ quan điều hành mọi công việc của đất nước. Bên cạnh đó, để vô hiệu hóa ngôi vị của các vua Lê, cách thức mà các chúa Trịnh thường sử dụng là tôn phò những ông vua miệng còn hơi sữa hoặc là những người nhu nhược. Trong thời gian khoảng 250 năm kể từ năm 1539 đến năm 1786, có tất cả 16 ông vua Lê được dựng lên, trong đó có 3 nhà vua bị họ Trịnh thủ tiêu (Anh Tông, Kính Tông và Duy Phương) vì có ý định chống lại họ Trịnh; có 5 nhà vua dưới 12 tuổi (Thần Tông, Chân Tông, Huyền Tông, Gia Tông và Hy Tông) hầu như đều do các chúa Trịnh nuôi nấng, rèn luyện từ nhỏ trong phủ Chúa để tạo ra những ông vua chỉ cho có vì. Vậy nên: Vua Lê Kính Tông (1600 - 1619): “chắp tay rũ áo mà trị nước, phần nhiều dựa vào Chúa trong giúp đỡ Vua, ngoài thâu tóm binh quyền” [101, tr.15]; Vua Lê Dụ Tông (1706 - 1729): “ung dung rũ áo, chắp tay mà hưởng lộc trời” [42, tr.323]; Vua Lê Thần Tông (1732 - 1735): “khoanh tay rũ áo ngồi ở trên, không khó nhọc mà đâu ra đấy” [91, tr.59]; Vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786): “chỉ ca múa tự làm vui” [96, tr.1]…Các ông vua khác cũng có vai trò tương tự. Vấn đề là tại sao họ Trịnh vẫn duy trì nhà Lê mà không thay thế luôn cái triều đại đã mục nát kia, dù rằng có đủ khả năng thực hiện điều đó. Như chúng ta đã biết, vào đúng thời điểm Nguyễn Kim tìm được hậu duệ của vua Lê rồi dựng cờ Cần vương ở tận Ai Lao (1533), thì nhà Mạc đã kịp làm cho "nước giàu dân mạnh". Chính sử thần nhà Lê về sau cũng phải thừa nhận rằng vào thời gian đó, "họ Mạc ra lệnh cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua, cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi. Ai vi phạm thì cho phép quan Ty bắt giữ. Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết là gia súc của mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên" [108]. Việc trị nước an dân của nhà Mạc, đã bị can qua làm rối loạn và gián đoạn. Vậy thì lý do gì khiến cho lòng người vẫn không nhất tâm hướng theo chính quyền Mạc, một chính quyền dù sao mặc lòng vẫn đáp ứng được những nguyện vọng tối thiểu của những cư dân nông nghiệp là "an cư lạc nghiệp" như thế? Lời chiếu vào dịp thu phục lại kinh đô Thăng Long năm 1592, tuy về danh nghĩa là được vua Lê ban ra, mà chắc chắn đã được Trịnh Tùng cân nhắc, ngẫm ngợi từng câu chữ, giải thích phần nào lý do chính yếu: "Nhà nước ta, Thái Tổ Cao hoàng đế ứng mệnh trời, thuận lòng người, thừa cơ mở vận, theo nghĩa lớn dẹp hung tàn, được thiên hạ tất chính đáng, quy mô dựng nước đã rộng lớn lại lâu dài. Thái Tông Văn hoàng đế nối lời dạy bảo, xướng xuất kẻ dưới; Nhân Tông hoàng đế rạng công người trước, rõ sáng đức xưa; Thánh Tông Thuần hoàng đế sáng lập pháp chế, mở ra muôn đời văn minh; Hiến Tông Duệ hoàng đế kê xét điển chương, chấn chỉnh bốn phương giường mối. Mọi điển chương pháp độ để giữ cơ nghiệp đã tường tận và đầy đủ cả rồi. Các đời truyền nối, mưu lớn công to, mở mang phò tá, đều theo lẽ chính, người sau có thể giữ mãi đời đời" [108]. Nói theo ngôn ngữ ngày trước, thì vương triều Lê Sơ, kể cho đến Lê Hiến Tông, đã góp cho lịch sử nước nhà những kỳ tích lớn lao cả về võ công, cả về văn trị, vậy nên đầy đủ lý do để "trường tồn mãi mãi". Xét đoạn lời chiếu đã dẫn bằng cái nhìn lịch sử chính trị học ngày nay, vẫn có thể nhận định rằng những lời lẽ đó về cơ bản là xác đáng. So với nhà Lê, nhà Mạc không có võ công gì đáng kể đối với đất nước, không những thế, còn bị "bêu tên" là "bán nước", nhẹ là "làm nhục quốc thể", mà về văn trị cũng chưa đủ mới mẻ, vượt lên cao, đi xa hơn một cách đáng kể, tuy ở một vài phương diện có những bước tiến nhất định, so với thịnh thời của nhà Lê. Mô hình tổ chức và quản lý xã hội trong lịch sử Việt Nam, như đã rõ, đạt tới trạng thái cổ điển của một hình thái lịch sử, là dưới triều Lê Thánh Tông, vị hoàng đế sáng danh nhất trong lịch sử quốc gia - dân tộc. "Lòng người" - chủ yếu là "dân tâm" - vẫn "quyến luyến nhà Lê" là một sự thật lịch sử. Đây có thể coi là lý do căn bản nhất để ngôi vị hoàng đế của nhà Lê vẫn cứ được duy trì như một thành tố quan trọng của cơ chế quyền lực. Do đó, có thể nói rằng trong tâm thức người Việt thời kỳ này thì tất cả các triều đại phong kiến quân chủ Việt Nam đều được phân chia thành triều đại "chính thống" hoặc "không chính thống" theo sự sắp xếp của các sử gia từng thời kỳ lịch sử. Sự đánh giá này hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự lên ngôi và cách thức lên ngôi của triều đại ấy. Những người thừa kế ngai vàng bằng cách trực tiếp hay gián tiếp giành quyền từ tay quân xâm lược để lập nên một triều đại mới. Triều đại này được coi là triều đại chính thống. Ngược lại triều đại nào được lập ra do phế truất ngôi vua để lên ngôi, thường được coi là "nhuận triều". Như vậy, nếu như họ Trịnh lật đổ nhà Lê thì chắc hẳn không thu phục được tất cả nhân tâm mà trong hoàn cảnh lúc đó, các chúa Trịnh đang rất cần sự thống nhất ý chí của dân chúng đối với một triều đình mới "trung hưng". Xét từ một góc độ khác, ngôi vị của nhà Lê càng trở nên tất yếu trong các quan hệ đối ngoại, vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ Đàng Ngoài. Nếu các chúa Trịnh truất bỏ và thay thế ngôi vị của vua Lê, chắc chắn các chúa Nguyễn ở Đàng Trong không lý do gì mà không tự lập thành một quốc gia thực thụ. Cũng chắc chắn rằng lịch sử trong mối quan hệ ngoại giao với triều đình nhà Minh rồi sau đó là triều đình nhà Thanh, quốc hiệu An Nam và tước vị An Nam quốc Vương, họ Trịnh không làm cách gì để được các Thiên tử của "Thiên triều" thừa nhận. Đó là những nguyên nhân cơ bản nhất để họ Trịnh không thay thế hẳn triều Lê mà suốt hai thế kỷ vẫn theo một ngọn cờ "phù Lê". Nhưng dù được che đậy dưới hình thức nào thì mọi quyền hành trên thực tế đã thuộc về họ Trịnh. Trong suốt hơn hai thế kỷ đó, các chúa Trịnh là người điều hành quốc gia Đàng Ngoài. Đây là một trong những cuộc chuyển giao quyền lực ít đổ máu nhất của lịch sử Việt Nam thời trung đại. Cũng chính vì thế nhà Trịnh đã quyết định thành lập Phủ Chúa - cơ quan điều hành đất nước của chính quyền Đàng Ngoài trong thế kỷ XVII – XVIII. Sau khi được phép lập phủ Chúa, họ Trịnh bắt đầu đặt ra một hệ thống tổ chức chính quyền ở phủ Chúa tương ứng với chính quyền sẵn có bên cung vua. Trước tiên, để bàn việc chính sự ở phủ Chúa, năm 1600, họ Trịnh đã bãi chức Tả hữu tướng và Bình chương của thời trước, đặt ra chức Tham tụng đảm đương công việc của Tể tướng. Về phẩm thứ tuy chưa quy định, nhưng quyền lực của Tham tụng là rất lớn, đều là do chúa Trịnh tự tiến cử từ những viên Thượng thư hoặc Thị lang vào làm. “Từ đấy về sau, chính sự quyền bính nhà Vua đều do Tùng tự quyết đoán, của cải, thuế khoá, quân lính và nhân dân hết thảy thuộc về phủ Chúa” [103, tr.222]. Tiếp theo, năm 1601, họ Trịnh lại đặt thêm chức Bồi tụng, cũng là chức vụ quan trọng được làm việc trong phủ Chúa. Để dùng người vào chức này, chúa Trịnh cũng tự ý lựa chọn từ những quan lại bên triều đình ở chức Đô cấp sự trung, như Nguyễn Danh Thế, Ngô Trí Hòa vào làm, họ đều “giữ bản chức mà mang hàm dự vào chính sự dưới chức Tham tụng”. Dưới Tham tụng và Bồi tụng, có một cơ quan giúp việc. Buổi ban đầu, chúa Trịnh mới cho đặt Tam phiên, gồm có: Hộ phiên, Binh phiên và Thủy sư phiên bên cạnh tổ chức Lục bộ của Triều đình. Trịnh Tùng đặt ra Hộ phiên, Binh phiên và Thủy sư phiên lúc này là để đảm trách những công việc mới đặt ra đối với họ Trịnh trong buổi ban đầu. Trịnh Tùng được vua Lê phong lên làm Đại nguyên soái và được nắm hết binh quyền trong nước nên họ Trịnh phải đặt ra Binh phiên và Thủy sư phiên để trông coi và kiểm soát mọi việc quan, kể cả thủy quân để đối phó với họ Nguyễn ở Đàng Trong. Bên cạnh việc phong vương, họ Trịnh còn được ban một số đất đai nên chúa Trịnh phải đặt ra Hộ phiên để lo việc thuế má trong phần đất đó. Công việc này không thể để cho bộ Hộ trong triều đình lo được. Tuy đã lập ra Tam phiên song họ Trịnh vẫn xác định chức nhiệm chủ chốt lúc này vẫn thuộc về Lục bộ bên triều đình. Nhưng số Thượng thư của 6 bộ lúc đầu đặt còn thiếu, đến thời Trịnh Tạc (1664), mới đặt đủ Thượng thư 6 bộ. Trong số Thượng thư của 6 bộ có Tham tụng Phạm Công Trứ làm Thượng thư Lại bộ, Bồi tụng Trần Đăng Tuyển làm Thượng thư Hộ bộ, Nguyễn Năng Thiệu làm Thượng thư Lễ bộ, Vũ Duy Chí làm Thượng thư Binh bộ, Phan Kim Toàn làm Thượng thư Hình bộ và Lê Hiệu làm Thượng thư Công bộ. Phần lớn Thượng thư ở các bộ đều là những người ở phủ Chúa kiêm nhiệm bên triều đình và làm việc dưới quyền chỉ huy của phủ Chúa. Xét chức trách và nhiệm vụ của 6 bộ(8) ghi trong chỉ dụ năm 1675 thì phạm vi, quyền hạn của Lục bộ hãy còn rất lớn giống như dưới thời Hồng Đức, mặc dù lúc này đã có thêm tổ chức Tam phiên bên phủ Chúa. Lục bộ vẫn đóng vai trò như một cơ quan đầu não của Nhà nước phong kiến Lê - Trịnh, nắm giữ toàn bộ những việc quân, dân, chính trong toàn quốc. Chúa Trịnh lúc đó dù có dùng quyền chi phối Lục bộ nhưng chỉ mới đóng vai trò như một người phụ tá bên cạnh vua Lê mà thôi. Phủ Trịnh 1685- Samuel Baron Đến năm 1718 (tức 54 năm sau khi Trịnh Tạc kiện toàn tổ chức Lục bộ trong Triều đình), Trịnh Cương đã cho lập ra đủ 6 phiên ở phủ Chúa. “Lại phiên, Lễ phiên, Hình phiên, Công phiên cùng với Binh phiên và Hộ phiên đặt ra từ trước gọi là Lục phiên” tương ứng với 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công bên triều đình. Từ đây “phàm những việc tiền tài, thuế khóa, việc quân, việc dân ở trong cung cùng ở 4 Trấn, hai xứ Thanh - Nghệ, các trấn ngoại phiên đều thuộc cả về các phiên Ty” [90, tr.79]. Công việc thuế khóa trước kia do 46 Hiệu đứng ra trưng thu, nay Trịnh Cương đã đem các Hiệu ấy gộp thành 6 Cung cho trực thuộc vào 6 Phiên là: Cung Tả trưng, Cung Hữu trưng, Cung Đông (có các hiệu Đông giáp, Đông ất), Cung Nam (có các hiệu Nam giáp, Nam ất), Cung Đoài (có các hiệu Đoài giáp, Đoài ất) và Cung Bắc (có các hiệu Bắc giáp, Bắc ất). “Phàm sổ sách về tô thuế, thuế dung thuộc cung nào, thì cho các quan trong Lục phiên theo chức phận của mình chia nhau quản lý, chính lệnh về tài sản, thuế khóa và binh lính, dân đinh ở các trấn đều thuộc về Lục cung”. Số tên hiệu trong các cung đặt ra “rất nhiều và phiền phức, mà công việc tài chính và thuế khóa không còn liên quan gì đến Hộ bộ nữa. Từ đây chính sự trong nước về hết Lục phiên, mà Lục bộ, Lục tự chỉ đặt ra cho đủ vị mà thôi” [103, tr.412]. Quan lại là việc ở các Phiên do quan văn đảm nhiệm, đứng đầu là Tri phiên, tiếp đến là Phó tri phiên (Phó đô) và Thiêm tri phiên (Thiêm đô) cùng thuộc lại tất cả 60 người. Lúc đầu, với chức năng chủ yếu là thu thuế nên quan lại đứng đầu các phiên chưa mấy quan trọng, nhà Chúa đã trao cho hai người giữ chức Trị phiên cùng hai Phó tri phiên và hai Thiêm tri phiên, cả thảy 6 người. Các viên quan này có nhiệm vụ chủ yếu là trông coi việc thu nhận thuế má do các hiệu đem nộp. Ví dụ: ở cung Bắc (trực thuộc Công phiên) có hai viên Tri phiên thu huyện Văn Giang, hai viên Phó tri phiên thu huyện Võ Giàng và hai viên Thiêm tri phiên thu huyện Hiệp Hòa. Nhưng về sau, kề từ sau hiệu đính quan chế (1751), Trịnh Giang cho chấn chỉnh lại, chức trách của các quan lại thì chức vụ Tri phiên trở nên quan trọng, chúa Trịnh chỉ giao cho một người giữ chức Thượng thư bên bộ tương ứng đảm nhiệm. Các quan trong Lục bộ nắm giữ đại cương của Lục phiên. Dưới Tri phiên vẫn để hai viên Phó đô và hai viên Thiêm đô như cũ. Ngoài các Tri phiên, Phó tri phiên và Thiêm tri phiên chịu trách nhiệm chính còn có các thuộc lại gồm những Nội sai là Lại viên. Nội sai gồm có: Câu kê, Phó Câu kê, Cai tư, Cai hợp và Thủ hợp chịu trách nhiệm điều hành công việc hàng ngày của Lục phiên. Lại viên gồm có các viên: Thư tả, Lệnh sử, Xá nhân và Tướng thần lại, là những viên chức được tuyển dụng qua các kỳ thi thư toán giữ chức trách ghi chép sổ sách, chuyển đạt công văn, thừa hành mệnh lệnh của các quan trên sai phái. Như vậy, thành phần quan chức làm việc tại mỗi phiên gồm có: Tri phiên, Phó tri phiên, Thiêm tri phiên, Nội sai và Lại phiên(10). Như vậy, từ chức quan đứng đầu Lục phiên có hàm tương đương với hàm Thượng thư, Tả hữu thị lang bên Lục bộ như Tri phiên, Phó tri phiên và Thiêm tri phiên, còn các chức khác từ Câu kê trở xuống bên Lục phiên đều tương ứng với các chức bên Lục bộ từ Lang chung trở xuống những tứ phẩm hàm thì thấp hơn từ 1 đến 2 bậc. Dưới quan Tri phiên, Phó tri phiên và Thiêm tri phiên là cơ quan thừa hành, bao gồm: các Hiệu thu thuế theo địa phương (phân phối theo các hiệu trưng thu); các Hiệu thu thuế theo sản vật (tùy theo sản vật thu nhận, chúa Trịnh phân phối các hiệu trưng thu cho sáu phiên đảm trách); các cơ quan tiếp nhận thuế và cấp phát bổng lộc (tại mỗi phiên đều có một số hiệu tiếp thuế do các hiệu thu về nộp và sau đó thực hiện việc cấp phát bổng lộc cho các quan theo lệnh của Chúa); các cơ quan chuyên trách những việc chuyên môn và văn phòng trung ương. Cơ cấu tổ chức Phiên ở Phủ Chúa được sắp xếp đại thể như sau: Sơ đồ tổ chức phiên Từ sơ đồ, có thể nhận thấy, “trong sáu phiên, trừ Hộ phiên không có cơ quan thừa hành chuyên môn, còn lại đều có các cơ quan giống nhau, tên hiệu cũng như tên cơ quan cụ thể thì tùy thuộc vào từng phiên mà có tên gọi khác nhau” [90, tr.82]. Về ngạch võ quan, lúc đầu họ Trịnh vẫn theo phiên chế của nhà Lê trước đó. Quân lính vẫn chia làm 5 phủ gọi là Đô đốc phủ, gồm có: Trung quân, Nam quân, Bắc quân, Đông quân và Tây quân. Mỗi phủ đều có những chức: Tả đô đốc, Hữu đô đốc, Đồng tri, và Thiêm sự chuyên trách về quân. Năm 1664, cùng với việc đặt số Thượng thư của sáu Bộ bên triều đình, Trịnh Tạc bắt đầu đặt ra chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sự và quyền phủ sự đứng đầu, có nhiệm vụ bàn định các công việc trong phủ và tra xét các tờ khải tâu lên. Những người được tham dự chức vụ này đều lấy từ trong các đại thần quen thuộc. Như Thái phó Khê quận công Trịnh Trượng giữ chức Trung quân đô đốc phủ Tả đô đốc Chưởng phủ sự, Lỵ quận công Trịnh Đống giữ chức Đông quân đô đốc, phủ Tả đô đốc Chưởng phủ sự. Thiếu úy Vân quận công Trịnh Kiền giữ chức Nam quân Đô đốc phủ tả đô đốc thự phủ sự. Thiếu phó điện quận công Trịnh ốc giữ chức Bắc quân Đô đốc phủ tả đô đốc thự phủ sự. Chưởng phủ sự, Thự phủ sự, Quyền phủ sự cùng với quan Tham tụng bên văn bàn bạc chính sự Nhà nước, chức nhiệm long trọng. Từ đời Thái Bảo (1720 -1729) về sau, phần nhiều do quan văn đổi sang làm chức ấy (như Quốc lão Đặng Đình Tướng làm Chưởng phủ sự, Tham tụng Nguyễn Công Cơ làm Thử phụ sự). Các chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sự, Quyền phủ sự bên ngạch võ gọi là quan Ngũ phủ. Các chức quan Tham tụng, Bồi tụng bên ngạch quan văn gọi là quan Phủ liêu. Ngũ phủ và Phủ liêu hợp thành một cơ quan của Nhà nước quân chủ trung ương gọi là Ngũ phủ phủ liêu - một chính phủ tối cao đặt dưới quyền điều khiển của chúa Trịnh. Những viên quan giữ chức vụ trong Ngũ phủ phủ liêu được liệt vào bậc đại thần. Các quan Chưởng phủ, Thứ phủ ở Ngũ phủ và Tham tụng ở Phủ liêu có nhiệm vụ: 1 - Uốn nắn lòng vua; 2 - Chọn lựa quan lại; 3 - Bàn phép trị dân; 4 - Thẩm xét binh cơ; 5 - Chế định tài chính; 6 - Định lễ kiện tụng; 7 - Hội kê đinh điền; 8 - Làm đúng thưởng phạt; 9 - Giữ đúng pháp luật. Còn chức vụ của các viên Quyền phủ, Bồi tụng được quy định rõ là: “Các viên này phải theo các chức Chưởng phủ, Thứ phủ, Tham tụng mà bàn định các công việc nên làm, cùng hội đồng với các quan Thiêm sai để xét hỏi những tờ khải tâu lên" [90, tr.83]. Suy cho cùng những thay đổi về một số chức quan trong hàng văn võ đại thần hình thành nên Ngũ phủ phủ liêu cùng với việc lập ra Lục phiên thời chúa Trịnh chỉ làm cho bộ máy chính quyền Nhà nước thời kì này cồng kềnh và phức tạp thêm mà thôi. Trong khi đó, những cơ quan vốn có từ bên triều đình, thực tế không còn hoạt động, thì lại vẫn được duy trì. Sau khi đặt Lục phiên được hai năm, năm 1720, tuy Trịnh Cương đã cho khôi phục lại quan chế thời Hồng Đức nhưng “chẳng qua chỉ nói đại khái về cấp bậc, phẩm trật thuyên chuyển cất nhắc mà thôi, còn những chức trọng yếu trong hàng đại thần được gia phong thì không câu nệ và phải làm theo thời Trung hưng" [103, tr.447]. Quá trình lập ra Ngũ phủ liêu cùng các cơ quan giúp việc (từ Tam phiên đến Lục phiên) là cả một quá trình thâu tóm quyền hành của họ Trịnh từ phía Cung Vua về phía Phủ Chúa. Triều đình vua Lê cuối cùng chỉ còn lại một vài chức quan hư vị làm nhiệm vụ nghi thức. Chúa Trịnh trên danh nghĩa chỉ được xưng vương tước và đứng đầu Ngũ phủ phủ liêu, nhưng thực tế đã nắm hết quyền hành trong chính quyền Nhà nước lúc bấy giờ. Mọi cái gọi là cải cách chính quyền thời Lê - Trịnh (từ Trịnh Tùng cho tới Trịnh Cương) đều nhằm mục đích thâu tóm quyền lực về tay họ Trịnh, ngai vàng của vua Lê lúc này chẳng qua chỉ còn là nhãn hiệu bên ngoài, mọi tổ chức chính quyền Nhà nước đều do chúa Trịnh quyết đoán dưới danh hiệu vua Lê. III/ Những chính sách của các Chúa Trịnh nhằm ổn định và phát triển kinh tế 3.1. Chính sách trong kinh tế nông nghiệp Vấn đề ruộng đất luôn là vấn đề trung tâm của nhà nước quân chủ chuyên chế nói chung và của nhà Lê - Trịnh nói riêng. Nó được thể hiện qua phương thức đánh thuế và phân cấp các loại ruộng đất. Thời kỳ này, ở Đàng Ngoài vẫn tồn tại ba loại ruộng đất với ba hình thức sở hữu: ruộng thuộc Nhà nước trực tiếp quản lý, ruộng đất công làng xã và ruộng đất tư. Tuy nhiên, do chính sách phân cấp và quản lý có sự thay đổi dẫn đến những biến đổi lớn từ các loại ruộng. Đối với ruộng đất do Nhà nước trực tiếp quản lý trong thế kỷ XVII - XVIII, nhà nước Lê - Trịnh vẫn trực tiếp quả lý các bộ phận ruộng đất như ruộng do các bộ quản lý, ruộng quân, ao hồ, rừng núi. Ruộng cung tiến và thuộc điền cũng do triều đình trực tiếp quản lý. Ruộng nội điện được nhà nước giao cho điện Huy văn và tự Thái bộc trực tiếp quản lý. Ngoài ra còn một số đồn điền ở các địa phương như Quán La (Thường Tín - Hà Tây), Chí Ngại (Chí Linh)…[67, tr.84]. Một số nông dân được miễn sưu dịch, gọi là "nhiêu phu", được Nhà nước ban cấp cho các Bộ để cày cấy gặt hái ở các loại ruộng này. Theo quy định năm 1722, “khi nào mùa lúa chín, phàm những việc gặt hái ở các thuộc điền, ruộng cung tiến như thu hoạch và chứa vào các kho đều giao cho dân các xã thuộc huyện sở quản làm rồi miễn trừ cho tiền bài biểu và tiền bảy lễ” [36, tr.60]. Thu nhập của các loại ruộng này được sử dụng cho các chi phí riêng của Triều đình. Đối với ruộng đất công làng xã, từ sau khi đánh bại nhà Mạc, triều đình Lê - Trịnh quyết định bãi bỏ chế độ lộc điền và các chính sách phong cấp ruộng đất khác. Theo Lê Quý Đôn thì “từ lúc Trung hưng về sau, những ân lộc ban cho hoặc bằng tiền, hoặc bằng thóc, đều lĩnh ở kho công, ít khi cấp bằng ruộng công. Các công thần khai quốc vào đời Trung Hưng, nếu người nào trước kia đã được cấp ruộng cũng có khi bàn định rút bớt đi” [23, tr.176]. Tuy nhiên, chế độ này trên thực tế không bị bãi bỏ triệt để. Rải rác vẫn còn một số người được phong đất. “Năm 1647, con trai của Thái úy Trung quốc công Tạ Tuy được cấp 300 mẫu tự điện, 3 mẫu ruộng thủ mộ ở xãAn Xuyên huyện Yên Khánh. Con cháu Tạ Niên đã về đây sinh sống và lập lên Giáp Tạ; Lại Quốc Công Bùi Chi ở An L•ng huyện Trực Ninh hai lần vào đời Hoằng Định và Vĩnh Tộ, được cấp 10 mẫu ruộng quan ở quê nhà...” [67, tr.53]. Thời kỳ này, ruộng đất công làng xã đã bị lấn chiếm một cách mạnh mẽ và biến thành các loại ruộng đất khác. Ngoài nguyên nhân trên, một trong những nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng đó là do bọn địa chủ quan lại tìm cách bao chiếm. Đúng theo nhận xét của phủ Chúa, ở thế kỷ XVII - XVIII, "việc quân điền đã có lệ, nhưng những kẻ thừa hành thường làm theo lẽ riêng" [67, tr.49]. Chúng ta có thể xác nhận điều này thông qua những lệnh chỉ sau khi quân Nguyễn rút khỏi Nghệ An, năm 1665: “Các huyện ở Nam Hà xứ Nghệ An, quan điền ở bản xãnào được chia cho dân kiên trì theo nghĩa mỗi người hai phần, dân thú mỗi người một phần, đều nộp thuế như lệ" [67, tr.53]. Tình hình ẩn giấu ruộng công làm sai quy chế chia ruộng nói trên chắc chắn không phải chỉ xảy ra ở Thanh Hóa, Nghệ An. ở các trấn khác cũng như vậy. “Bọn quyền cai thủ dịch”, như cách gọi của chúa Trịnh, ở khắp nơi đều tìm cách lũng đoạn ruộng đất công trong làng xã. Hiện tượng bán ruộng đất công diễn ra ở nhiều nơi. Theo bia "Vĩnh thế hương hỏa bi", dựng năm 1677, ở xã Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, thì “vợ của Nhuệ vũ hầu đã bỏ tiền chuộc cho xã16 mẫu ruộng công bị bán trước đó. Theo bia Tự sự bi ký, dựng năm 1677 ở xãGia Quất ở huyện Gia Lâm (Hà Nội), một Hoa kiều tên là Trần Văn Huệ nhân lấy vợ người ở làng, đã tặng làng 38 dật bạc để chuộc lại 12 mẫu 5 sào ruộng công đã bán trước đó” [67, tr.50]. Để đề phòng sự mở rộng của tình trạng nói trên, đồng thời ngăn chặn tình hình xâm chiếm đất đai giữa các làng với nhau. Điều lệnh về khai báo ruộng, ban hành năm Cảnh Trị thứ 5 (1667) định rõ: “Các huyện xãở hai xứ Thanh Nghệ, xãnào có ruộng công mà ngoan cố không chịu chỉ dẫn để đo đạc…không chịu chỉ dẫn khám xét, thì cứ theo số ruộng mà thu tiền thuế ruộng cộng thêm tiền phạt nặng. Như có xãnào đã giảm hoặc ẩn lậu, quan lại tìm cách giữ sổ để bớt số ruộng, tra thực phải nhập nguyên số ruộng cho đủ và bắt chịu thêm tiền phạt” [67, tr.50]. Năm 1694, chúa Trịnh Căn đã ra lệnh cho cả nước làm lại sổ đất của làng, trong đó phải ghi rõ biên giới, sông hồ, ao, chằm, ruộng đất…gọi chung là "Tu tri bạ". Đây là một đợt làm sổ ruộng đất làng xãquan trọng của nhà nước Lê - Trịnh vì cho đến thế kỷ sau, các Tu tri bạ này vẫn giữ một giá trị pháp lý cao trong việc quản lý đất đai của chính quyền(9)). Những tướng sĩ đi đánh họ Mạc cũng được phong cấp. Chẳng hạn như Lộc quận công Đinh Văn Tả, có công đầu trong việc diệt Mạc đã được phong là Đại vương và "được thưởng 300 mẫu ruộng thế nghiệp" [67, tr.54]. Những người vì nạn ở các cuộc biến loạn trong triều đình cũng được phong cấp như "Nguyễn Quốc Trinh, làm Bồi tụng ở phủ Chúa, bị quân nỗi loạn giết năm 1674, đã được phong cấp 95 mẫu ruộng tế" [67, tr.55]. Bên cạnh đó, từ giữa thế kỷ XVII, Nhà nước đã thực hiện việc ban cấp ruộng thờ cho các quan văn cao cấp. Năm 1647, ngoại tổ họ Đặng là Hậu Trạch công được Trịnh Tráng ban thưởng 1330 lạng bạc để mua 50 mẫu ruộng tế, giao cho xã Thịnh Phúc cày cấy làm ngụ lộc. Trước đó, Thái bảo Lan quận công Nguyễn Trực chết năm 1637 đã được chúa Trịnh ban cho xã Vân Điềm (Bắc Giang) làm ngụ lộc và 64 mẫu ruộng thờ thế nghiệp ở 7 xã lân cận [67, tr.55]. Năm 1665, Nguyễn Khả Trạc và Ngô Tuấn về hưu được phong tước và cấp ruộng dưỡng lão [42, tr.302]. Năm 1744, chúa Trịnh Doanh cấp thực ấp cho Tham tụng Nguyễn Công Thái và Đào Hoàng Thực “mỗi người được một xã gọi là ngụ lộc” [96, tr.22]. Như vậy, mặc dù không chủ trương thực hiện chính sách lộc điền, nhưng trên thực tế, chính quyền Đàng Ngoài vẫn sử dụng khá nhiều ruộng đất công của làng xãvào việc ban thưởng cho các quan lại làm ruộng tế tự. Theo nguồn tài liệu của Trương Hữu Quýnh thì "ở làng Hoài Bảo (Tiên Sơn - Bắc Ninh) sau này vẫn còn 14 mẫu "ruộng đồng quan" của Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo" [67, tr.56]. Loại ruộng thờ tự này hầu như sẽ bị biến thành ruộng tư của người được phong(10). Việc ban cấp ruộng huệ dưỡng như vậy là hết sức rộng rãi, vì theo quy chế năm Chính Hòa thứ 2 (1681), nho sinh hay giám sinh trúng Tam trường, sau 3 hay 6 năm đủ niên hạn, có thể được phong tri huyện, tri châu (tòng nhất phẩm), rồi phong lên huyện úy (chánh nhất phẩm). Còn theo quy định năm Bảo Thái thứ 2 (1721), thì quan nhất, nhị phẩm có thể nhờ lệ nhiệm tử mà được xét ngang nho sinh thi đậu Tam trường, sau đó được cất nhắc làm quan [67, tr. 89]. Do vậy, ruộng đất công làng xãbị cắt xén để cấp làm ruộng hưu hay lộc điền cho quan lại chiếm một số lượng đáng kể(11). Theo quy định của Triều đình, "thời hạn được thưởng số ruộng đó là 16 năm" [67, tr.88]. Trong quan hệ bang giao với Trung Quốc thời kỳ này thì, cứ 3 năm nhà Trịnh phải cử một đoàn phái bộ sang cống nộp hoặc trao đổi vấn đề quốc sự. Số người được cử đi trong một phái bộ thông thường bao gồm: 1 hoặc 2 chánh sứ, 2 phó sứ, 3 thông sự, 2 lương y, 2 nội sai, 10 hặc 14 tùy nhân (tuỳ nhiêu), tức là khoảng 25 người(12). Cũng trong đó thời kì này, quan viên đỗ đạt cao được cấp theo chức phẩm như sau: Trạng nguyên được cấp 20 mẫu; Bảng nhãn và Thám hoa được cấp 15 mẫu; Hoàng giáp được cấp 5 mẫu [23, tr.159]. Như vậy, nếu tính "số quan lại các cấp từ bát phẩm trở lên gồm khoảng 3500 người, thì số ruộng công sẽ phải trích cắt cho là khoảng 90000 mẫu" [67, tr.89]. Đó là chưa tính được diện tích mà các hoàng tử, hoàng thân, các cung tần công chúa được cấp ruộng huệ lộc và ngụ lộc. Ngoài ra, ruộng công làng xã còn được dùng để thưởng công. Chẳng hạn, "gia đình Tổng thái giám Nguyễn Khuê được thưởng 20 mẫu ruộng quan ở bản xãnăm 1710; Hưng thái công Đinh Văn Vĩ được ban 50 mẫu ruộng tế; Tham tụng Lê Anh Tuấn được ban 36 mẫu ruộng lộc"(13) [67, tr.90]… Một chính sách đáng chú ý nhất là chính quyền Đàng Ngoài đã thực hiện việc phân cấp ruộng đất cho binh lính rất rộng rãi. Biện pháp này đã khiến bộ phận ruộng công làng xã bị cắt xén và biến đổi nhanh chóng. Để xây dựng một lực lượng quân đội mạnh, phục vụ cho các cuộc chiến tranh và “dẹp giặc cỏ”, các chúa Trịnh đã dùng chính sách ưu đã i đối với quân đội bằng cách ban cấp ruộng đất cho họ. Binh lính được cấp ruộng khẩu phần ở quê nhà và được cấp một số tiền lương hàng năm khoảng từ 13 đến 18 quan để sinh sống [65, tr.46]. Quân đội chủ lực và thường trực chủ yếu bao gồm lính Thanh Hóa và Nghệ An, số lượng được dùng luôn khoảng 4 - 5 vạn. Hiện nay chưa có tài liệu nào thống kê để hiểu rõ chế độ phân cấp ruộng khẩu phần của lực lượng này, nhưng chắc chắn binh lính Thanh Nghệ sẽ có số ruộng cấp lớn hơn binh lính Tứ trấn(13). Năm 1733, Tham tụng Nguyễn Hiệu cho biết: “…Số ngạch nhất binh đã gấp đôi ngày trước…việc nuôi lính phải tốn phí nhiều, chỉ làm cho dân đau khổ”. chúa Trịnh Giang cũng phải thừa nhận: “..Lính mộ vào các năm Thái Bảo toàn là người bơ vơ, đầu đường xó chợ mà ruộng cấp cho lại nhiều” [103, tr. 638]. Chính vì vậy mà Trịnh Giang phải ra lệnh bãi việc tuyển mộ lính ở Tứ trấn. Nhưng đến thời thời Trịnh Doanh thì chính quyền Đàng Ngoài lại phải tuyển thêm rất nhiều lính và không những thực hiện chính sách phân cấp ruộng công cho lực lượng này như cũ mà còn tăng hơn. Năm 1741, "triều đình đã cấp thêm cho mỗi ưu binh một mẫu ruộng làm phụ lương" [13, tr.23]. Năm 1743, “Lại cho thêm nhất binh Tứ trấn và phủ Trường Yên mỗi suất 1 mẫu quan điền làm khẩu phần” [13, tr. 23]. Sau khi ban cấp cho các thành phần được ưu tiên, số ruộng công còn lại mới đem phân cấp đều cho dân đinh trong làng xã theo lệ cũ. Sự ưu tiên của nhà nước đã dẫn đến tình trạng ruộng công bị lạm cấp quá nhiều. Trước tình hình đó, năm Vĩnh Thọ thứ 2 (1654), chúa Trịnh Tạc đã ra một lệnh cấm binh lính không được chiếm lạm ruộng đất công: “Những binh lính ở các xứ Thanh Nghệ mà làm lính ở Kinh kỳ, sung vào các doanh cơ, các đội thuyền cũng như ở các đồn trấn đã được chuẩn cấp cho ruộng công tại nguyên quán ít nhiều thế nào mà quân phân cho đều, không được chiếm lạm nhiều hơn. Cấp cho lính rồi, còn thừa bao nhiêu thì quân phân cho dân làng. Nếu trái lệnh cho phép dân xã tố cáo đến nha môn để trừng trị kẻ phạm tội” [47, tr.113]. Ruộng đất hậu thần, hậu Phật vốn là sở hữu tư nhân của các chủ ruộng lại trở thành tài sản công cộng của làng xã. ở thế kỷ XVII - XVIII, cùng với sự phục hưng của Phật giáo và tục thờ thành hoàng làng, số ruộng đất thuộc sở hữu làng xã tăng lên đáng kể. Hầu như làng xã nào cũng có ít nhiều ruộng "hậu thần", "hậu Phật". Số làng sở hữu từ 30 - 40 mẫu ruộng loại này khá nhiều. Làng xã thường dùng nó làm "ruộng thầy", "ruộng học", "ruộng thưởng" hoặc dùng vào việc chung của làng. Nhờ đó mà sinh hoạt mà quan hệ làng xã vẫn được duy trì bền chặt. Sang thế kỷ XVI - XVII Phật giáo được hưng phục phần nào. Bộ phận ruộng đất này cũng theo đó mà được mở rộng. Rải rác còn lại số tư liệu chứng tỏ điều đó. Nhiều làng xãdần dần khắc lại các bia kệ ruộng đất của chùa như chùa Thần Ân ở xã Phù Than, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc, chùa Thần Quang tức Keo ở xã Hành Nghĩa huyện, Vũ Thư, tỉnh Thái Bình v.v… Một số chùa khác được cúng thêm nhiều ruộng đất. Chẳng hạn, theo bia "Thanh Tước Sùng Ân tự bi ký" dựng năm 1594 ở xãThanh Tước, huyện Yên Lãng (Vĩnh Phúc) nhân việc Trịnh Tùng đứng ra sửa lại chùa Sùng Ân, chỉnh lại phủ Thái vương. Trần Thị Ngọc Lĩnh đã cúng chùa hơn 300 mẫu ruộng ở làng bao gồm cả ruộng tư lẫn ruộng công. Theo bia Kim Lô tự bi dưng năm 1655 ở xãAn Điềm, huyện Chí Linh (Hải Dương) chùa còn lại 120 mẫu ruộng quan và 104 mẫu ruộng còn lại khác. Hoặc như chùa Thần Quang nói trên, có đến hơn 1000 mẫu ruộng rải rác ở nhiều xã. Chùa Hưng Phúc ở xã Hưng Giáo huyện Thanh Oai (Hà Nội) vào cuối thế kỷ XVII được cúng tất cả gần 50 mẫu ruộng v.v… Nếu như thời Lý - Trần, ruộng đất của nhà chùa thuộc sở hữu riêng của chùa và được nhà nước trung ương giúp đỡ trong việc quản lí thì ở thế kỷ XVII - XVIII, hình như Nhà nước và xãdân cùng nhau quản lí ruộng đất của các chùa lớn có trên hàng chục mẫu. Trong ruộng chùa có một bộ phận ruộng quan. Rõ ràng Nhà nước thời kỳ này đã thực hiện chính sách lấy ruộng quan để cấp cho chùa. Chẳng hạn, vào đời Trịnh Đức (1653 - 1657), “Hộ phiên phụng chỉ lấy 50 mẫu ruộng ở các xã Gia Phúc, Hoàng Phúc và Thượng Phúc tái cúng làm ruộng tam bảo của chùa Pháp Vũ” [90, tr.465]. Tất nhiên, trọng những trường hợp như vậy, quyền quản lí của nhà nước và các xã càng lớn hơn. Người cày ruộng chùa không phải ai khác là dân cư làng xã. Việc cấp ruộng công (hay quan) cho chùa, ngược lại, đã biến nhà chùa thành một người giữ gìn ruộng công cho làng xãvà nhà nước. Ruộng công của chùa, do đó, đôi khi bị lấy để chia cấp cho binh lính. Đầu thế kỷ XVIII, chính quyền Đàng Ngoài nhận thấy sự phân cấp có phần thiên lệch giữa các thành phần được phân cấp: “trước đây ruộng công do các châu hoặc huyện quân cấp cho dân, phần nhiều sơ lược, không được công bằng” [103, tr.399]. Đây là nguy cơ dẫn đến sự bất công và đấu tranh. Do đó, đối với bộ phận ruộng đất công được phân chia, để phù hợp với tình hình mới, năm 1711, Trịnh Cương thi hành một chính sách quân điền, dựa trên chính sách “quân điền” cũ thời Hồng Đức. Chính sách này gồm 10 điều và một bản quy định cụ thể về phần cấp cho các hạng dân binh. theo chính sách này, các viên quan được cử đi chia ruộng trước hết phải thống kê hết diện tích ruộng của làng xã, thu hồi những ruộng bị cầm cố, ẩn lậu để đem ra cấp cho dân. Thời hạn phân cấp vẫn giữ 6 năm một kỳ. Các xã nội tử vi (ruộng trực tiếp của nhà nước) thì do quan trong triều tổ chức phân cấp. Các xã đã bị cấp làm ngụ lộc, chế lộc, tự lộc thì viên quan được quan cấp đứng ra tổ chức việc phân cấp. Cách thức chia khẩu phần: “các xã tính số người mà phân cấp, xã nào nhiều ruộng thì chia theo mẫu, xã nào ít thì chia theo sào, thước. Người được hưởng ruộng gồm tất cả thành viên trong làng xã: từ quan viên đến cô nhi, quả phụ, tàn tật. Người nào đã quá 60 tuổi hay đã chết thì đều phải trả lại ruộng” [67, tr.95]. Thứ bậc phân cấp theo tục lệ cũ mà tiến hành (nghĩa là theo quy định từ thời Hồng Đức). Trường hợp “do quan dịch nặng nề, bức bách không cách cứu vãn thì cho phép bán ruộng công khẩu phần. Người mua ruộng phải theo sổ nộp thuế cho nhà nước như lệ và xã có quyền chuộc lại. Các quan chức có phẩm hàm được cấp từ 9 phần trở lên, cứ theo phẩm hàm tăng 1 phần hai ruộng. Viên chức chưa có phẩm hàm được cấp 8 phần rưỡi trở xuống cho đến 4 phần rưỡi, dân đinh bình thường và người già yếu, cô, quả, tàn tật được hưởng 3 đến 4 phần" [67, tr.96]. So với bảng phân cấp thời Hồng Đức, quy chế phân hạng đã có thêm một số viên chức được cấp từ 4 phần rưỡi trở lên. Đây là hạng chức sắc chưa có phẩm hàm. Số người thêm vào các hạng gồm chủ yếu là quân nhân. Như vậy, chính sách quân điền này lại tấn công thêm một bước nữa vào diện tích ruộng công làng xã. Đối với ruộng đất tư, để ổn định tình hình xã hội, động viên phần việc khai hoang mở rộng diện tích trồng trọt, năm 1684, nhà Lê - Trịnh đã ra lệnh: “phàm dân xã nào có ruộng ẩn lậu, chưa liệt vào lệ ngạch nộp thuế thì đều… miễn thuế cho. Từ nay về sau người dân không được tố cáo,… quan cai thu không được lấy cớ là ruộng ẩn lậu mà bắt bớ này khác…” [12, tr.253]. Bên cạnh đó, một điểm đáng lưu ý là trong chính sách năm 1711 là, việc cho phép người được chia ruộng có quyền bán ruộng “khi có việc quan bức bách”. Trong trường hợp đó, nhà nước chỉ cần giữ lại quyền thu thuế và quyền chuộc ruộng. Đây là điều kiện cho sự lũng đoạn đất công của bọn địa chủ cường hào, mở rộng cửa cho tư hữu hóa ruộng đất. Những chính sách này, nhất là điều khoản cấm dân không được tố cáo ruộng lậu, quan không được kiếm cớ bắt ruộng lậu đã tạo điều kiện cho ruộng đất tư ngày càng phát triển, mặc dù nhà nước tìm cách khuyên răn để hạn chế bớt tình hình nói trên. Trong 47 điều giáo hóa có đoạn: “cấm không được mạo xưng là con cháu các thế gia triều trước, giả làm bằng chứng tông phái, làm giả chúc thư, đưa người làm chứng bậy, nhận tranh điền thổ của người khác” [47, tr.295]. Từ đầu thế kỷ XVI, như chúng ta đã thấy, ruộng đất tư hữu phát triển mạnh mẽ và cùng với chế độ chiếm hữu lớn, tư nhân về ruộng đất đã làm cơ sở cho một cuộc biến động bùng nổ, chấm dứt thời kì thống trị của nhà Lê Sơ và sự thống nhất của cả nước dưới một chính quyền chuyên chế. Tiếp theo đó, hàng chục năm chiến tranh phong kiến liên miên ở các thế kỷ XVI - XVII không những tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế nông nghiệp mà còn là điều kiện thuận lợi cho bọn phong kiến, địa chủ địa phương hoành hành, chấp chiếm ruộng đất. Chế độ sở hữu tư nhân còn phát triển mạnh hơn do sự thúc đẩy của những hoạt động công thương nghiệp, sự ra đời của các đô thị, sự phổ cập hơn nữa của quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Các nguồn sử liệu địa phương hầu như đều nói lên tình trạng chấp chiếm của bọn địa chủ, cường hào đối với những bộ phận ruộng đất công dùng để phụng sự các khu lăng mộ đế vương triều trước. Bia "Cổ pháp điện tạo bi" dựng năm 1604 ở làng Đình Bảng (Bắc Ninh) đã nói đến việc 284 mẫu ruộng thờ của 8 vua nhà Lý ở đây bị bọn cường hào nhân loạn mà chấp chiếm hết. Nay, Bình An vương Trịnh Tùng phải xuống lệnh bắt trả để cấp lại cho làng như cũ để phụng sự. Bia Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế công dựng năm 1696 ở huyện Trường An - Gia Viễn (Ninh Bình) cũng nói lên tình trạng tương tự. Các bia ghi ruộng tế tự của các công thần cũ thời Lý - Trần bị phá bỏ để phi tang. Ruộng đất bị chấp chiếm trái phép. Đến như ruộng đất của các công thần thời Lê Sơ cũng nhân loạn mà bị chấp chiếm. Theo bia Kiến lập thần miếu tế điền dựng năm 1680 ở xã Thanh Điềm - Yên Lãng (Vĩnh Phúc) chẳng hạn, một công thần của nhà Lê là Thọ Xuyên hầu có 60 mẫu ruộng ở đây, bị bọn cường hào địa phương chấp chiếm trong những năm chiến tranh, mãi sau này mới tranh kiện lại được. Con cháu nhân đó, tặng xã 12 mẫu. Thậm chí, bọn này còn chấp chiếm cả ruộng đất riêng của xã. Ví dụ, theo bia "Thái tu hầu thần bi” dựng năm 1675 ở xã Cung Kiệm - Võ Giàng (Bắc Giang): "xã có 17 mẫu ruộng do ý Yên tử Lê Đình Phổ và thái giám Đào Công Nhân cúng tặng từ đầu thế kỷ XVI, thế mà bọn hào cường đã phá bia chiếm ruộng, khai gian là ruộng của tổ tiên để lại. Xã phải tranh kiện nhiều lần mới lấy lại được" [67, tr.135]. Có nhiều biểu hiện của sự phát triển của chế độ tư hữu về ruộng đất. Dựa vào các bia hậu thần, hậu phật, chúng ta có thể có một số dẫn chứng. ở thế kỷ XVII, việc cúng ruộng cho làng hay cho nhà chùa để được thờ phụng lâu dài đã mang tính chất phổ biến, mặc dầu không phải mọi địa chủ quan lại đều cúng ruộng cho làng, cũng như không phải việc cúng ruộng chỉ xuất phát từ một nguyên nhân duy nhất là không có người nối dõi phụng thờ. Có người nhân khó khăn của làng mà cúng ruộng giúp, có người dùng ruộng để nhờ làng cúng giỗ cho cha mẹ hay con cái, có người cúng ruộng cho làng để nâng cao địa vị của dòng họ đối với làng… Số bia hậu tuy chiếm đại đa số trong tổng số bia còn lại hiện nay song chưa phải là tất cả, vì vậy, số trường hợp mà chúng ta ghi được chưa bao gồm hết những người cúng ruộng cho làng, chùa và số người này chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng số địa chủ, quan lại của các làng hay một làng. Chẳng hạn, "ở cùng một làng, trong một khoảng thời gian 25 năm, rất hiếm có 2 trường hợp cúng ruộng" [67, tr.135]. Hơn nữa, thậm chí không ít những làng ở miền xuôi hoàn toàn không có bia hậu ở một nửa thế kỷ nào đó (chúng ta biết rằng, loại ruộng hậu này được làng hay chùa giữ gìn khá bền vững. Bia hậu do đó, ít khi bị huỷ). Tuy nhiên, đây cũng là một biểu hiện của sự phát triển của ruộng đất tư hữu(14). Trong những trường hợp trên, có khá nhiều người làm quan lâu năm, chức vụ lớn như Quận công Nguyễn Công Triều (bia ghi Nguyễn Minh Triều), Quận công Đinh Văn Tả. Số lượng phi tần (9/34) mới chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tổng số phi tần của cả vua Lê lẫn chúa Trịnh, nếu tính trong khoảng một thế kỷ (thế kỷ XVII, kế tiếp nhau thống trị có 6 vua, 4 chúa). Ngoài ra những trường hợp như Trương Thọ Kiên, Nguyễn Ngọc Hàn (con trai của quận công) cúng ruộng không phải cho mình mà cho làng phụng thờ cha mẹ; trường hợp Nguyễn Tự Cường cúng ruộng để giỗ con. Làm một sự so sánh nhỏ, ta thấy bà Thái phi Trịnh Thị Ngọc Đài chỉ cúng chùa 10 mẫu ruộng trong lúc bà ta có thể có đến hàng trăm mẫu, vì chẳng hạn theo bia Hoàng Long điện bi ký dựng năm 1684 ở xã Hoàng Đan huyện ý Yên (Hà Nam) Hoàng thái hậu Trịnh Ngọc Ý có tất cả 246 mẫu ruộng các loại, bà đã cúng cho 5 thôn, giáp ở làng 41 mẫu ruộng. Sự phát triển của chế độ tư hữu tư nhân về ruộng đất càng về sau càng tăng và trong tình hình của những thế kỷ XVII đã dẫn đến một tình trạng phân tán đáng chú ý. Lợi dụng sự kiểm soát yếu ớt của nhà nước trung ương, đặc biệt là trong những năm chiến tranh, bọn địa chủ phong kiến địa phương mặc sức hoành hành, lấn chiếm ruộng đất, sông hồ đường xá của chung, tự tiện thu thuế bến đò, đặt sở tuần ty để thu tiền của khách thương qua lại. Để kiểm soát tình hình này, năm 1610, Tả thị lang Bộ Hộ Lê Bất Tứ đã dâng sớ tâu “xin xử trí với các cường phiên chuyên quyền một trấn để thống nhất chế độ”, sau đó năm 1613, ông lại điều trần 6 điều, trong đó có điều: “xin đè nén kẻ cường hào để nuôi sức dân”. Chúa Trịnh Tùng tán thành, nhưng không có biện pháp ngăn chặn ngay. Sau đó, vào năm Cảnh Trị thứ nhất (1663), Nhà nước ra một quy định: "Đường sá ở hương thôn đã có giới hạn, như có kẻ xâm chiến làm của riêng khiến đường hẹp lại cho phép xã thôn trưởng đo khám, đòi lại giới hạn cũ hoặc khe ngòi ở các làng… không được xâm chiến làm ao, đầm riêng… Núi, rừng, khe, đầm, cống, đập, nếu không phải là sở hữu tổ tiên thì phải để lại cho mọi người cùng hưởng, không được tự chiếm làm của riêng không cho người khác hưởng, dùng” [47, tr.482]. Bọn địa chủ địa phương còn tự tiện nắm quyền xét xử các vụ kiện tụng trong làng xóm, đặt riêng các nha môn để hạch sách nhân dân. Để ngăn chặn tệ nạn đó, trong những văn bản giáo hoá của nhà Lê - Trịnh quy định: “Trong hương đảng không được cậy nhà giàu, thế mạnh mà khinh nhờn xã trưởng, riêng nhận các đơn kiện mà tự mình xử đoán” hoặc “Trong hương đảng nếu có những việc kiện về hộ, hôn, điền sản và cá tạp tụng khác thì đã có các nha môn cai quản theo phép công mà xét xử. Quan viên, bảo hữu và binh lính bản xã, thôn không được quyền đặt nha môn riêng, đòi hỏi và khám xét các vụ kiện tụng đó, rồi không phân biệt phải trái, hạnh sách tiền của, khiến người khác phải khuynh gia bại sản” [47, tr.483]. Lũng đoạn quyền hành trong xã, bọn cường hào còn tìm cách chiếm đoạt ruộng đất của người khác, giả mạo giấy tờ, bao chiếm ruộng đất công hoặc ngăn trở việc thực hiện các lệnh phong cấp ruộng đất của nhà nước. Điều lệnh năm Khánh Đức thứ nhất (1649) có đoạn ghi: “Nhân viên các huyện, xã trong nước được lệnh khai cấp ruộng thần công, ruộng sứ thần và ruộng tế công thần của tổ tiên, ruộng tạo lệ, phải theo nguyên lệnh mà cấp. Quan sở cai, nhà quyền quý và các viên chức khác không được tranh giành, ngăn trở. Kẻ vi phạm, cho người nhận lệnh báo lên nha môn”. Do đó, trong lệnh chỉ năm Vạn Khánh thứ nhất (1662) Triều đình đã cấm: “Không có lệnh cấp ruộng đất thì không được tự tiện dựng mộc bài tranh bậy, ai dám trái lệnh cho phép người được chia ruộng cùng con cháu tố cáo lên nha môn, luận xét” [47, tr.479]. Những hành động ngang ngược của bọn quan lại, địa chủ, cường hào địa phương chứng tỏ rằng, ở thế kỷ XVII, những quan hệ sản xuất phong kiến đã thống trị vững chắc ở nông thôn. Hình thành những xu hướng nâng cao quyền hành cá nhân của địa chủ phong kiến, đặc biệt trong phạm vi từng làng. Sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất còn thể hiện ở các làng thành lập bằng phương thức khẩn hoang. Sự mở rộng phạm vi làng của xã Quần Anh, huyện Hải Hậu (Thái Bình) trong những thế kỷ XVI - XVII cho chúng ta là một ví dụ. Theo quy định, hầu hết ruộng đất do dân làng khẩn hoang đều được xem chủ yếu là ruộng tư. Như khai báo của làng ở đầu thế kỷ XIX thì diện tích ruộng đất của làng đương thời đã lên tới gần 9000 mẫu. Vào cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII, trên đất Đàng Ngoài đã hình thành hàng loạt địa chủ có trên 100 mẫu ruộng, nhiều người đã có hàng nghìn mẫu ruộng tư. Trong sách Kiến Văn tiểu lục, Lê Quý Đôn cho biết vào khoảng năm Chính Hoà thứ 20 (1699), ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, có những người như Huyện Lân ở Thiên Bản (Vụ Bản, Nam Định), Cống Trung ở Thanh Quan (Đông Hưng, Thái Bình), bà Bổi ở Tứ Kỳ và Hưởng Trật ở Đường An (Hải Dương), người nào cũng khởi gia giầu dữ, vàng bạc tiền thóc kể có ức vạn, đất nhiều ruộng tốt khắp một địa phương. Số địa chủ phi quan lại cũng đã xuất hiện. Trường hợp bà Bổi là một điển hình. Theo tấm bia dựng năm 1920, "bà Bổi có tới hơn 1000 mẫu ruộng, hơn vạn quan tiền, thóc gạo gia súc nhiều không kể xiết. Bà đã cúng cho triều đình 200 mẫu ruộng, chia cho 4 người con nuôi mỗi người 50 mẫu và biếu cho làng xã hàng trăm mẫu" [23, tr.466]. Tài liệu bi ký đầu thế kỷ XVIII và gia phả cung cấp hàng trăm trường hợp mua bán ruộng đất từ 2 - 3 mẫu đến 40 - 50 mẫu. Chẳng hạn, năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710), gia đình ứng Quận công Đặng Đình Tướng bỏ tiền mua một lúc 50 mẫu ruộng ở các xãtrong Huyện Phú Xuyên (Hà Tây). Năm 1730, nhà họ Phan mua một lúc 37 mẫu ruộng ở huyện Can Lộc (Hà Tĩnh). Tuy nhiên, số ruộng đất của địa chủ thường không tập trung ở một khu vực nhất định, mà rải ra ở nhiều cánh đồng thuộc các làng xã khác nhau. Vào đầu thế kỷ XVIII, khi mà nhà nước Lê - Trịnh đã ổn định và được củng cố thì đồng thời cũng ban hành chính sách nhằm hạn chế sự phát triển sở hữu lớn của địa chủ và không để cho những chủ ruộng toàn quyền tổ chức kinh doanh theo lối riêng của mình. Trong điều kiện tồn tại một nhà nước trung ương có ít nhiều lực lượng chi phối - điều mà các nước Tây Âu trung kỳ trung đại không có - các làng xã không bị tách khỏi nhà nước mà sự thực thì không một tên địa chủ, phong kiến địa phương có đủ sức làm được điều đó, thì sự hoành hành của các thế lực phong kiến địa phương chỉ có thể diễn ra trong phạm vi một làng hay vài làng, trong một khuôn khổ nhất định cho phép. Hơn nữa, tuy làng xã bị phụ thuộc phong kiến, nhưng vẫn còn giữ được ít nhiều truyền thống riêng và lấy đó làm cơ sở đấu tranh, hạn chế bớt sự lũng đoạn phong kiến. Cuộc đấu tranh này về một mặt nào đó, được nhà nước trung ương ủng hộ. Trong một hoàn cảnh phức tạp như vậy, đã hình thành xu thế hoà lẫn giữa các nhân tố phong kiến và các nhân tố công xã, những quan hệ đôi khi không lộ ra nguyên hình mà bị che đậy dưới cái vỏ công xã hoặc dưới cái vỏ nhà nước, tạo nên nét đặc sắc nổi bật của nông thôn Việt Nam Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII - XVIII. 3.2. Chính sách thuế và các biện pháp khuyến nông Các chính sách thuế nông nghiệp là nguồn thu chính, nuôi sống nhà nước quân chủ. Do đó, triều đình Lê - Trịnh hết sức quan tâm đến chính sách này. Các chúa Trịnh đã tìm cách định các ngạch cụ thể nhằm tận thu được tối đa nguồn tô thuế nông nghiệp(15). Cũng năm này, chúa Trịnh đã định ngạch thuế thân như sau: “ở đồn điền, mỗi người 1 quan 8 tiền; các trang trại mới lập, mỗi người 1 quan; ở các sở, mỗi người 1 quan 2 tiền; Những người canh tác ruộng công thì: ở ruộng hạng nhất nộp 1 quan 1 mẫu; hạng nhì nộp 8 tiền 1 mẫu; hạng ba nộp 6 tiên trên 1 mẫu. Quy định cứ 100 thăng thóc tương đương vơi 3 quan tiền. Người cày ruộng công thần, ruộng sứ thần, ruộng tự, ruộng khẩu phần của binh lính đều được miễn thuế thân” (16) [12, tr.55]. Theo quy định của nhà nước, 100 thăng thóc được nộp thay bằng 3 quan tiền. Một mẫu loại ruộng nhất đẳng chỉ phải nộp khoảng 63 thăng (bằng khoảng 164 kg), tức là khoảng 20% thu hoạch. Nhìn chung chế độ tô thuế của chính quyền Đàng Ngoài trước năm 1722 là tương đối nhẹ. Đến năm 1722, chúa Trịnh Cương cho ban hành một chính sách thuế mới theo quy định: tất cả mọi loại ruộng đất phức tạp trước đó được gộp lại dưới 3 hình thức tô ruộng tư, ruộng công và ruộng đất bãi. Để thực hiện chính sách này, ngay từ năm 1719, chúa Trịnh đã cho quan viên đi đo đất toàn bộ Đàng Ngoài và tuyên bố: “ruộng trong nước không kể ruộng công hay tư, đều thi hành việc khám xét đo đạc, rồi liệu thao lượng bổ ngạch thuế để cho giàu nghèo giúp đỡ nhau, nặng nhẹ gánh vác lẫn nhau”(17) [37, tr.42]. Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét: "Phép tô đã trải qua hai lần xét định như thế thì một tấc đất cũng không xót, không có chỗ nào là không đánh thuế. Mặc dù mức thuế ruộng tư chỉ bằng khoảng 1/3 thuế ruộng công nhưng với số ruộng lớn đã đem lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước" [121, tr.59]. Trên cơ sở đó, mức thuế ruộng công năm 1722, cũng giảm gần 60% so với biểu thuế ban hành năm 1670. Cũng theo nhận xét của Phan Huy Chú: "Phép tô dung điệu do đời Bảo Thái định ra so với lệ phú thuế của đời Cảnh Trị thì tinh tường hơn và thoả đáng hơn. Tuy ngạch thuế có nặng hơn, nhưng sự châm chước thêm bớt đều làm được vừa phải cả. Thuế của nhà vua không đánh vào ruộng tư, đó là phép cũ, nay ruộng công ruộng tư đều chia bậc mà lấy tô, không ruộng nào không đánh thuế, thì số thu vào hàng năm sẽ thêm nhiều, các tạp dịch đều bổ vào các hộ, đó là phép cũ, nay chỉ có mùa đông, mùa hạ mới thu tiền điệu để thuê người làm thay, thì có thể bớt được sự thúc giục phiền nhiễu, mà sức dân không đến nỗi khốn đốn…" [12, tr.57]. Như vậy, đến đầu thế kỷ XVIII, nhà nước bắt đầu đánh thuế ruộng tư để bù vào số thuế ruộng công đã bị giảm. Tuy nhiên lúc này, không phải tất cả các loại ruộng tư đều phải đóng thuế. Chính sách trên vẫn còn quy định: "Quan viên trong cung được chiếu theo phẩm hạch cho miễn thuế gấp đôi số ruộng kiến nghị. Nếu ruộng quan nào thừa số hạn định thì thu thuế phần dư. Nếu thiếu thì bổ bù bằng tiền" [37, tr.47](18)). Như vậy, thuế ruộng tư so với ruộng công năm 1722 là 37% và năm 1728 là 30 %. Điều này thể hiện rõ chính sách ưu tiên cho ruộng tư hữu, mặt khác cũng cho thấy sự phát triển khá mạnh của ruộng rư ở thời kỳ này. Với phép định ngạch thuế này, Phan Huy Chú có nhận xét: “Phép tô đã qua hai lần xét định, như thế thì một tấc đất cũng không sót, không có chỗ nào là không đánh thuế… Đó là cái thuật phú quốc của kẻ bá giả” [12, tr.59]. Đặc biệt, năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), chúa Trịnh đã “ra lệnh cho giảm một nửa tô ruộng tư ở Thanh Nghệ; còn ruộng công thì miễn tất” [12, tr.59]. Đây là lần đầu tiên và là duy nhất chính quyền Đàng Ngoài miễn thuế ruộng công cho một địa phương là vùng Thanh Nghệ(19). Sau đó Triều đình còn tăng đồng loạt thuế gia tô, "mỗi loại ruộng thêm 30 đồng" [103, tr.562]. Việc tăng thuế gia tô chỉ thực hiện khi quốc khố trống rỗng. Năm 1758, chúa Trịnh Doanh thu tiền gia tô thêm; tiếp đó, năm 1764 "lại thu thêm một phần hai tiền thuế gia tô" [12, tr.60]. Như vậy, thuế ruộng ngày càng tăng, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XVIII, trong đó, thời kỳ chúa Trịnh Doanh là thời kỳ nhà Lê - Trịnh cho áp dụng định mức thuế cao nhất. 2.1.2.2. Các biện pháp khuyến nông Không chỉ thi hành các chính sách thuế để cung cấp cho triều đình, các chúa Trịnh còn phải thực hiện các biện pháp khuyến nông. Thực tế cho thấy, trong các thế kỷ XVII - XVIII, từ công tác phòng chống thiên tai, bão lũ đến việc tăng cường khuyến khích sản xuất cũng đã được Nhà nước chăm lo. Bởi đây là công việc cần thiết của một nước nông nghiệp. Hơn nữa, đó cũng là biện pháp góp phần bảo đảm nguồn thu cho nhà nước. Năm Vĩnh Thọ thứ ba (1655), chúa Trịnh Tạc đã ban hành kì hạn khám xét đê điều như sau: “Nha Thừa ty ở các xứ, hàng năm cứ tháng 9 phải có giấy sức cho các quan huyện, chuyển sắc cho các xã trong bản hạt, làng nào có đường đê bị sạt vỡ, nguy hại nơi xung yếu thì cho đo khám trước; đến tháng 10 trình lên nha Thừa ty để thân hành đến điều tra rồi làm tờ khải trình lên vào tháng 12; đợi đến tháng giêng năm sau sẽ thi hành đắp đê ấy… Nếu sai lệnh, cho phép dân xã tố cáo, các quan ấy sẽ bị trị tội biếm hoặc bãi chức” [47, tr.477]. Thời kỳ này, việc đắp đê và hộ đê được phân theo từng cấp. Nhà nước chỉ thực hiện quản lý những đê xung yếu, còn lại thì giao cho địa phương lo việc đắp đê và phòng hộ. Năm Cảnh Trịnh thứ 2 (1664), chúa Trịnh Tạc lại ra một lệnh chỉ quy định cụ thể: “Tùy theo công trình lớn nhỏ mà chia bổ cho dân xã; công trình nhỏ thì hoặc là giao cho một xã nơi ấy, hay thêm một xã phụ cận; công trình lớn thì giao cho một tổng ở huyện ấy, hoặc thêm một tổng nữa ở huyện khác tự lấy làm sai dịch của mình. Đến tháng giêng sẽ khai ấn cho dân đắp đê, đến tháng hai phải hoàn thành để dân về cày cấy… Nếu công trình to tát quá thì phải khải lên để sai quan đi đốc xuất dân đinh về công tác đó” [47, tr.481]. Lệnh chỉ này còn được nhắc lại năm 1669. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm thường xuyên của các chúa Trịnh đối với kinh tế nông nghiệp. Năm Cảnh Trị thứ 3 (1665), chúa Trịnh Tạc lệnh cho quan giám sát Ngự sử ở các đạo phải trực tiếp khám xét cụ thể phường xã đã thực hiện được bao nhiêu số lượng đào đắp và tu bổ các tuyến đê để Triều đình có kế hoạch cụ thể [47, tr.481]. Việc phân cấp cho các địa phương tự quản lý công tác bảo hộ đê điều và khuyến nông là một trong những biện pháp linh hoạt. Tuy nhiên biện pháp này chỉ có thể mang lại hiệu quả khi mà chính quyền đủ sức mạnh điều hành từ cấp trung ương đến các cấp địa phương. Trên thực tế, bắt đầu từ thế kỷ XVIII, sự phân cấp đó đã có phần tỏ ra kém hiệu quả. Chính chúa Trịnh Cương đã thừa nhận tình trạng này: “Trước đây, việc đốc thúc dân đắp đê giao cho viên quan ở trấn, phần nhiều chỉ làm cẩu thả cho xong việc nên mỗi năm đến mùa xuân nước lớn, đê lại vỡ, dân vùng ven sông luôn bị tai hại” [103, tr.398]. Vì vậy, nhiều lần triều đình phải lệnh cho quan Triều đình trực tiếp chia nhau đi đốc xuất công việc sửa đắp đê. Chẳng hạn như vào các năm 1708, 1711…"Nhưng nhiều khi ngay cả Triều đình cũng không sao chống được nạn lụt"[103, tr.389]. Tháng 7 - 1713, vỡ đê, Triều đình lệnh cho chiếu theo sổ ruộng và suất đinh thu tiền để thuê người sửa đắp. Lúc này Nhà nước thu tổng số của 206311 suất đinh, mỗi suất 1 quan tiền (tức là bằng khoảng một năm thuế ruộng công loại nhất đẳng theo ngạch thuế năm 1728). Từ nửa sau thế kỷ XVIII thì việc đê điều chỉ được triều đình thực hiện một cách đối phó sau khi đã xảy ra lũ lụt, công tác phòng bị không được coi trọng như trước. Chúng ta có thể thấy rõ tình trạng này qua bản thống kê ở trên. Bên cạnh công tác phòng chống thiên tai, bảo vệ mùa màng, các chúa Trịnh còn chú ý đến việc bảo đảm sức kéo cho nông nghiệp. Năm Đức Long thứ 6 (1640), chúa Trịnh Tráng đã ra một lệnh chỉ cấm giết trâu bò bừa bãi: “…Chợ ở các làng, các huyện không được giết trâu bò cày và bán thịt. Ai trái lệnh này cho phép hai ty Thừa và Hiến cùng các nha môn phủ huyện bắt luận tội… Khi làng nào và viên quan nào có việc tế lễ thần cầu phúc, hay có việc hỷ, xin được giết trâu bò mấy con thì phải làm đơn xin quan huyện chuẩn phê mới được thi hành” [47, tr.73]. Luật lệ này được nhắc lại vào năm 1645 và được duy trì suốt triều đại Lê - Trịnh. Đến giữa thế kỷ XVIII, trước tình trạng dân phiêu tán diễn ra ngày càng phổ biến đã ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất. Để khắc phục tình trạng này, các chúa Trịnh đã áp dụng biện pháp cho binh lính và dân phiêu tán khai hoang, lập đồn điền. Tháng 7 - 1741, chúa Trịnh Doanh cho đặt chức Nông quan ở Tứ trấn, đồng thời lệnh giao cho binh lính khai hoang lập các đồn điền: "Lính Kinh kỳ lập 3 sở; lính Tứ trấn lập 7 sở; lính tuần thú biên cương lập 9 sở; lính đã xuất ngũ lập 14 sở và quy định lính trước đây đóng đồn ở nơi nào thì ở đó mà lập đồn điền cày cấy" [91, tr.181]. Tháng 3 - 1753, Trịnh Doanh “lệnh cho quan sở tại ở vùng Đông và Nam, là những nơi đã bị binh lửa, ruộng đất bỏ hoang, được đặt thêm lính đồn điền để khai khẩn. Lấy quan lính đi đánh giặc đã được rút về, phân phối đi cày cấy ở các lộ” [103, tr.620]. Nhưng chính sách trên không được duy trì lâu dài, vì thời kỳ này binh lính liên tục bị huy động để đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Tháng 3 - 1757, chúa Trịnh Doanh phải bãi bỏ chính sách cho binh lính làm đồn điền và “giao đất đã khai khẩn đó cho địa phương định ngạch thuế” [103, tr.636]. Việc khai khẩn ruộng đất hoang hoá về sau chủ yếu do dân phiêu tán thực hiện. Tháng 3 - 1776, chúa Trịnh Sâm ra một lệnh cho phép người dân khẩn hoang ruộng ở các trấn. Để khuyến khích, triều đình còn “cấp cho mỗi người đến khai khẩn trâu bò, nông cụ và 15 quan tiền để khai hoang” [103, tr.729]. Những biện pháp mà các chúa Trịnh cho thực hiện suốt hai thế kỷ XVII - XVIII như đã trình bày trên phần nào đem lại sự ổn định và phát triển kinh tế nông nghiệp, tạo cơ sở cho ổn định chính trị - xãhội trong thời kỳ này. 3.3. Chính sách kinh tế công - thương nghiệp Chính sách trong kinh tế thủ công nghiệp thời kỳ này, chính quyền Lê - Trịnh vẫn duy trì hai hình thức kinh tế thủ công nghiệp: thủ công nghiệp Nhà nước và thủ công nghiệp nhân dân. Tất cả đều do Bộ công, Công phiên và Hộ phiên trực tiếp quản lí. Đối với thủ công nghiệp Nhà nước Sách Lê triều hội điển ghi rõ: “...Các sản phẩm trước khi xuất xưởng đều phải có người của Công phiên kiểm tra về chất lượng” [51, tr.166]. Nhà nước trực tiếp quản lí các ngành thủ công nghiệp như đóng tàu, đúc tiền, đúc súng…Trong thế kỷ XVII - XVIII, chính quyền Lê - Trịnh vẫn thực hiện chính sách công xưởng, quan xưởng. Đây là loại hình thủ công nghiệp Nhà nước có từ thời Lý, nhằm đáp ứng nhu cầu về mọi mặt của triều đình như xây dựng các đền đài, cung điện, sản xuất vũ khí, khai thác mỏ, sản xuất các đồ dùng phục vụ nhu cầu sinh hoạt của tầng lớp vua quan. Về cách thức tổ chức sản xuất đối với loại hình thủ công nghiệp này, chính quyền Lê - Trịnh vẫn duy trì chế độ cộng tượng. Trong đó, nhân công lao động trong các xưởng sản xuất được huy động theo chế độ trưng tập với những thời gian dài ngắn khác nhau. Trong những xưởng thủ công của Nhà nước, thợ được tổ chức thành đội ngũ như binh lính và sản xuất theo hình thức lao dịch, được cấp phát tiền, gạo như quân đội. “Những viên thủ mặc và những thợ hạng nhất, hạng nhì ở trong cục, mỗi người được 6 quan tiền cổ, 3 mẫu ruộng công. Nếu không có công điền thì cấp cho 3 quan tiền cổ và 5 thùng thóc. Những viên phó thủ mặc và thợ hạng ba trong cục, mỗi người được 4 quan tiền cổ, 2 mẫu công điền. Nếu không có công điền thì cấp cho 2 quan tiền và 3 thùng thóc” [51, tr.152]. Các xưởng cũng được lập ở những nơi thuận tiện việc sản xuất: Xưởng đóng tàu thuyền thì ở Bãi Cháy và Bến Thủy; Xưởng đúc súng ở Kinh thành Thăng Long; Xưởng đúc tiền thì được lập ở Nhật Chiêu và Cầu Giền trong Kinh thành. Từ năm 1753, do nhu cầu lớn về tiền tệ, Nhà nước có cho phép trấn Sơn Tây mở thêm trường đúc tiền. Sau đó, các trấn đua nhau đúc tiền gây nên nạn “tiền hoang”. Trước tình hình đó, năm 1760, Nhà nước đã bãi bỏ việc đúc tiền tại các trấn, chỉ để lại hai xưởng đúc tiền trong Kinh kỳ. Bên cạnh đó, chính quyền Đàng Ngoài còn có những công trường xây dựng lớn, triêu tập thợ khéo thuộc đủ các ngành nghề như thợ mộc, thợ rèn, thợ sơn, thợ đá…để xây dựng các đền đài, cung Vua, phủ Chúa… họ cũng phải làm việc theo chế độ lao động cưỡng bức hàng tháng, có khi hàng vài năm. Các đội thợ vàng bạc, thợ may, thợ chạm khắc chuyên làm việc chế tác các đồ trang sức, mũ áo, đồ nghi trượng, trang trí nhà của cho các quý tộc, quan lại…cũng phải chịu sự quản lý chặt chẽ của Hộ phiên. Các công xưởng của Nhà nước thời kỳ này, ngoài việc sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của Triều đình như trên còn được các chúa Trịnh tổ chức để sản xuất hàng hóa phục vụ cho nhu cầu thương mại mà Triều đình nhận theo đơn đặt hàng của thương nhân nước ngoài. Đối với thủ công nghiệp nhân dân các chúa Trịnh cũng chú trọng việc phát triển song song với việc duy trì chế độ thủ công nghiệp Nhà nước. Biện pháp lớn nhất của chính quyền Đàng Ngoài trong thế kỷ XVII - XVIII là thực hiện chính sách “mở cửa”, thông thương với các nước. Chính sự phát triển thương nghiệp đã kích thích các ngành thủ công nghiệp nhân dân phát triển theo. Hàng chục làng nghề thủ công được hình thành ở khắp các địa phương mà tập trung nhất là tại Kinh kỳ - Kẻ Chợ và Phố Hiến đã phản ánh sinh động kết quả của các chính sách mở cửa. Bên cạnh đó, các chúa Trịnh còn thực hiện một số chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động thủ công nghiệp như cấp đất, cho phép mở các phường thủ công để sản xuất hàng hóa. Nếu như thời kỳ Lê Sơ, có lúc triều đình còn hạn chế số người lưu trú trong Kinh thành, thì ngược lại, trong thời kỳ này, việc quy tụ người dân đến những trung tâm đô thị là hết sức tự do, ngay cả trong Kinh thành Thăng Long. Đặc biệt, để phát triển công thương nghiệp, các chúa Trịnh đã thực hiện chế độ giảm bớt các loại thuế dung, thuế điệu cho người sản xuất thủ công nghiệp. Tác giả sách Vũ Trung tùy bút có ghi: “Theo lệ cũ, chốn Kinh thành không phải chịu thuế dung, thuế điệu, chỉ tính từng dãy nhà, không phân biệt quan dân, hàng năm mỗi nhà phải chịu một suất đi sửa sang, đắp lại nền cắm cờ, dọn cỏ xung quanh cung đình, cung ứng việc kiến trúc” [27, tr.23]. Các địa phương khác, nhiều lần Triều đình đã giảm hoặc miễn thuế dao dịch cho diêm hộ để nhân dân phát triển sản xuất. Năm 1721, Triều đình cho người dân làm muối (táo đinh) được miễn tạp dịch [91;, tr.87]. Theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, những người sản xuất phi nông nghiệp phần lớn họ là những người có hộ khẩu cư trú ở nông thôn, nhưng thường qua lại buôn bán, tác nghề thủ công ở các trung tâm đô thị, thị trấn. Việc huy động sử dụng những lao động này trong các công việc phu phen có gặp khó khăn. Nếu Nhà nước vẫn duy trì chế độ sai dịch triệt để như trước thì không những nhà nước phải vất vả trong việc huy động nhân lực mà còn kìm hãm hoạt động sản xuất, năng xuất của thợ thủ công sẽ bị giảm sút. Để giải quyết vấn đề này, năm 1722, chúa Trịnh Cương cho thi hành phép tô, dung, điệu. Tất cả những khoản đóng góp về tiền bài biểu, điện miếu, tự sự, lao dịch… được thay bằng một thứ duy nhất là thuế điệu. Đáng chú ý, loại thuế đó được nộp bằng tiền. Hàng năm, mỗi suất nộp 6 tiền. Như vậy, sự đóng góp của nhân dân đơn giản hơn. Đối với người sản xuất thủ công nghiệp ở dạng đặc biệt như người làm nghề muối ở miền biển, nghề khai thác khoáng sản nơi miền núi, Nhà nước nhiều lần cho miễn trừ phú dịch. Thể lệ này có tác dụng khuyến khích công thương nghiệp phát triển. Đối với nghề khai thác mỏ triều đình Lê - Trịnh thực hiện phương thức quản lý và tổ chức sản xuất kết hợp giữa Nhà nước, quan lại và cả thương nhân nước ngoài. Nghề khai khoáng là một trong những ngành kinh tế quan trọng và có lịch sử phát triển lâu đời ở nước ta. Đàng Ngoài có tiềm năng khoáng sản phong phú, tập trung chủ yếu ở miền trung du và thượng du phía Bắc, dọc biên giới Việt - Trung. Hàng loạt các mỏ kim loại, đặc biệt là đồng, đã được thăm dò khai thác trong thế kỷ XVII - XVIII. Đó là các mỏ đồng ở một số địa phương như Tuyên Quang, Hưng Hoá; mỏ vàng, kẽm, thiếc ở Thái Nguyên. Từ nửa đầu thế kỷ XVII, Nhà nước đã chú ý đến việc khai thác mỏ để phục vụ chiến tranh và quốc dụng. Nhưng do những điều kiện khách quan như cuộc chiến trang Nam - Bắc triều kéo dài gây nên sự bất ổn ở khu vực miền núi, các thổ tù ở đây chỉ chịu sự ràng buộc lỏng lẻo nên triều đình không thể quản lý. Việc khai thác mỏ ở các khu phần lớn còn thả nổi cho tư nhân khai thác tự do rồi nộp một phần thuế cho triều đình. Vì vậy dẫn đến tình trạng "thuế nộp mười phần chỉ thu được một" [12, tr.8]. Từ nửa sau thế kỷ thứ XVII, tình hình chính trị tạm ổn định, Nhà nước có điều kiện quan tâm thích đáng và chú ý vào công cuộc khai thác khoáng sản, hạn chế được những hiện tượng tiêu cực trong nghề khai thác. Bên cạnh đó, sự phát triển của kinh tế hàng hoá ở Đàng Ngoài cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển về khai mỏ. Sang thế kỷ XVIII, Nhà nước bắt đầu thi hành chính sách quản lý chặt chẽ các trường mỏ từ khâu khai thác, sản xuất, vận chuyển đến mua bán. Chính quyền Đàng Ngoài cố gắng khẳng định độc quyền quản lý việc khai thác các mỏ. Điều này được thể hiện qua chế độ quản giám thực hiện từ năm 1760. Trong đó, thành phần các quản giám thuộc ba tầng lớp: các vương hầu, quý tộc; các quan lại triều đình tự nguyện xin tổ chức khai khoáng và quan lại địa phương. Theo quy định "mỗi viên quản giám một hoặc hai trường mỏ, cho xuất vốn riêng mộ người đến khai thác" [12, tr.8]. Nhà nước cũng quy định: người muốn khai thác bất kỳ mỏ nào đều phải có đơn xin phép và được chính quyền chấp nhận mới được tiến hành hoạt động. Năm 1728, bằng đấu tranh ngoại giao kết hợp với quân sự, triều đình Lê - Trịnh đã đòi lại được mỏ đồng Tụ Long ở Tuyên Quang bị nhà Thanh chiếm vào những năm cuối thế kỷ XVII. Đây là mỏ đồng quý, có chữ lượng lớn nhất nước lúc bấy giờ. Đáng chú ý, Nhà nước cho phép người chủ mỏ tự bỏ vốn ra thuê người khai thác. Điều này đã tạo điều kiện cho sự tham gia với tư cách tư nhân của các quan lại triều đình và thổ tù địa phương. Ngay cả thương nhân Trung Quốc cũng được phép đứng ra khai thác. Bởi những lực lượng này mới đủ vốn thuê nhân công cũng như trình độ, kinh nghiệm tổ chức các trường mỏ. Đây có thể coi là một biện pháp khá táo bạo của chính quyền Đàng Ngoài nhằm phát triển ngành thai thác mỏ. Kết quả, sau một thời gian bị đình trệ, khoảng từ năm 1756 trở đi, các hoạt động khai khoáng đã được phục hồi. Năm 1757, Biên thú châu Vị Xuyên là Hoàng Văn Kỳ xin khai lại mỏ đồng Tụ Long. Chúa Trịnh chuẩn uy và cử thêm quan giám đương ở Hộ phiên và quan liêu thủ Tuyên Quang cùng trông nom việc khai thác ở đây. Cũng năm 1757, Huấn Trung hầu Nguyễn Đình Huấn xin khai mỏ đồng Xảng Mộc ở Thái Nguyên. Hai năm sau, ông lại xin khai thác hai mỏ đồng nữa ở Liêm Tuyền và Yên Hân cũng thuộc Thái Nguyên. Năm 1759, Hán Trung hầu Nguyễn Phương Đỉnh xin khai mỏ đồng Trình Lạn ở Hưng Hoá. Quan Đề lĩnh Nguyễn Danh Thưởng xin khai mỏ đồng Hoài Viễn ở Lạng Sơn. Liêu thủ Bùi Thế khanh đứng ra xin khai thác ba mỏ trong ba năm: Năm 1756 xin khai mỏ kẽm ở Côn Minh, năm 1758 xin khai mỏ vàng ở Kim Mã và Tam Lộng, năm 1759 xin khai mỏ thiếc ở Vụ Nông. Năm 1762, Nhà nước cho phép khai mỏ đồng, bạc, gang, diêm tiêu ở Thượng Giả (Thái Nguyên), Trình Lạm (hưng Hoá), Tiên Nông (Phú Thọ). Kết quả là đến cuối thế kỷ XVIII, "ở Đàng Ngoài đã có tới 74 mỏ gồm 11 loại khoáng sản được khai thác" [106, tr.66]. Đáng chú ý, với việc cho phép của Triều đình, tại một số mỏ do thương nhân Trung Quốc đứng ra khai thác, nhân công khai thác phần lớn là người Trung Quốc. Những thợ mỏ Trung Quốc đã có tay nghề cao, có kinh nghiệm khai thác, họ cũng đang theo phương thức tiến bộ hơn: ''Có sự phân công, hợp tác giản đơn trong từng khâu của quá trình khai thác. Chính vì vậy mà năng suất lao động trong các mỏ này cao hơn hẳn so với các mỏ của người Việt" [90, tr.221]. Ngành khai thác mỏ đã có sự du nhập phương thức sản xuất mới khá tiến bộ, thể hiện trong một vài cơ sở sản xuất, ở đây đã có sự hợp tác đơn giản. Những yếu tố này, tuy chưa được phổ biến song ít nhiều có ảnh hưởng đến trình độ tổ chức và kỹ thuật khai thác mỏ nói chung ở Việt Nam thời kỳ này và cả những giai đoạn sau đó. Các chính sách trong ngành khai thác mỏ của chính quyền Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII - XVIII cho thấy, nhà nước không chủ trương trực tiếp tổ chức khai thác mà chỉ tạo điều kiện cho tư nhân hoạt động. Tuy nhiên, khi ngành này phát triển, nó đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng, có đóng góp lớn cho thu nhập của triều đình. Do đó, để khống chế ngành kinh tế này, các chúa Trịnh đã cho thực hiện các biện pháp tăng cường việc quản lý, bằng cách kiểm soát các số phu mỏ và thông qua chính sách thuế. Vào năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1717), Nhà nước đã quy định hạn chế số người trong các mỏ, không kể người Việt hay người nước ngoài: mỏ nhiều chỉ 300 người, mỏ vừa là 200 và mỏ ít là 100 người [12, tr.79]. Bên cạnh dó, mức thuế Nhà nước quy định cho từng mỏ tuỳ thuộc vào trữ lượng và năng suất khai thác ở các mỏ. Năm 1774, triều đình "định thuế mỏ Tụ Long mỗi năm thu 1 vạn cân" [103, tr.711]. Đây có lẽ là mức thuế cao nhất đối với một mỏ có trữ lượng năng suất nhiều nhất ở nước ta lúc bấy giờ. Các mỏ khác, ví dụ như mỏ thiếc Tụ Nông một năm chỉ nộp thuế 1200 cân [12, tr.78]. Chúng ta chưa đủ tư liệu để biết được chính xác tổng số thuế ở các trường mỏ Đàng Ngoài nộp cho nhà nước ở thế kỷ XVII - XVIII là bao nhiêu, nhưng chắc chắn đây là phần đóng góp quan trọng cho tài chính quốc gia Đàng Ngoài. Phan Huy Chú có ghi: "việc chi dùng của nhà nước sở dĩ được dồi dào là do thuế ở mỏ nộp đầy đủ" [12, tr.78]. Nhằm đảm bảo nguồn thu, các chúa Trịnh cố gắng hạn chế tình trạng trốn thuế của các chủ mỏ và quan giám đương, kể cả dùng biện pháp mạnh như bãi chức. Năm 1761, chúa Trịnh Sâm đã bãi chức Lưu thủ Bùi Thế Khanh vì ông này xin giấy phép mở một trường mỏ nhưng trên thực tế là khai thác lậu thêm ba trường mỏ khác: "Hai mỏ vàng và một mỏ kẽm không có tờ khai" [12, tr.78]. Để khuyến khích hoạt động khai mỏ, các chúa Trịnh thực hiện chính sách "cho miễn thuế 5 năm; sau đó chiếu số sản xuất hàng năm mà bổ thuế. Viên quan nào khai thác xong mỏ thì cho được vĩnh viễn quản giám để họ nỗ lực đôn đốc công việc, làm lợi thuế khoá cho Nhà nước" [12, tr.8]. Chính sách này đã làm cho “người bấy giờ đều đua nhau vui lòng khai mỏ” [12, tr.78]. 3.3. Chính sách trong kinh tế thương nghiệp Trong thương nghiệp, vai trò của Nhà nước thể hiện ở các chính sách thuế, phương thức đánh thuế cũng như thủ tục và cách thức quản lý. Các yếu tố này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế thương nghiệp. Trong thế kỷ XVII - XVIII, các chúa Trịnh đã có nhiều thay đổi trong chính sách thương nghiệp do nhu cầu phát triển của kinh tế hàng hoá trong nước và tác động của luồng quan hệ mậu dịch quốc tế. Đối với nội thương các chúa Trịnh thực hiện đánh ba loại thuế vào mỗi loại hàng hoá gồm: thuế thổ sản; thuế tuần ty, thuế đò và thuế chợ. Năm 1649, lệnh của phủ Chúa đã quy định: “Đường sá thuỷ bộ các huyện, phủ, xứ trong nước, gián hoặc có nhà quyền quý, quan sử đặt riêng các sở tuần ty phí lệ ngạch để tuần sát các bến đò, bến sông, sách nhiễu tiền bạc của người đi hay người buôn bán… Từ nay về sau, nếu nhà quyền quý hoặc viên sở cai nào còn giám trái phép, đặt riêng tuần ty và lấy riêng thuế sông thuế bến, cho phép 2 ty quan bản xứ cùng nhau sai lại thu lấy thuế, nếu bắt được chính danh kẻ tuần giữ bến sông thì cho trị tội, viên quan có quyền cai quản thì tước quyền cai quản, phạt thêm 100 quan tiền cổ, kẻ quyền quý không có quyền cai quản thì phạt 200 quan tiền cổ” [47, tr.465]. Theo Phan Huy Chú, năm 1724 Nhà nước đã định ngạch thuế thổ sản cho 119 loại hàng hoá bao gồm: 10 loại kim loại; 15 loại gỗ và củi; 12 loại thuỷ hải sản; 2 loại than; 25 loại các vật dụng như muối, vải, sơn…; 31 loại thập vật như thuyền, giấy…; 24 loại vật thờ cúng [12, tr.80]. Trong đó các loại như thuế muối, quế và đồng, đã được định cụ thể. Chẳng hạn năm 1720, Triều đình định thuế muối như sau: ở nội trấn thì 100 cân nộp 1 tiền quý; ở ngoài trấn thì 100 cân nộp 3 tiền quý. Năm 1770 Triều đình lại có quy định: mỗi mẫu muối, ruộng công phải nộp 8 tiền; ruộng tư nộp 3 tiền; còn ruộng ngoài đê thì được giảm 2 tiền [12, tr.81]. Như vậy, số thuế sản vật đối với muối, người sản xuất phải đóng bằng tiền hoặc bằng muối thời kỳ này là khoảng 2/10 số muối làm ra. Bên cạnh đó, đối với thuế đồng: cứ 100 cân đồng đáng giá 100 quan thì phải nộp 4 tiền 36 đồng. Nhà nước cũng mở rộng loại thuế tuần ty, thuế đò. Lượng thuế thu là khoảng 1/40 hàng hoá. Năm 1723, Triều đình quy định mức thuế tuần ty như sau: ''hai sở tuần ty Trung Kỳ và Khả Lưu đánh thuế gỗ tre thì theo lệ cũ 1/10; tạp hoá 1/20. Các tuần ty khác thì gỗ tre thuế 1/40, tạp hoá 1/40"(20) [12, tr.82]. Bên cạnh đó, trong thế kỷ XVII - XVIII chính quyền Lê - Trịnh đã thu thuế ở hầu hết các chợ trong nước. Tuy nhiên, việc thu thuế kéo theo những sự nhũng nhiễu phiền phức của quan lại thừa hành ở các địa phương. Để hạn chế tình trạng này, năm 1727, Nhà nước đã '' bãi bỏ thuế chợ, chỉ đánh thuế một số chợ làm thịt trâu bò" [91, tr.236]. Từ đây thuế chợ chỉ còn là biện pháp dùng để ngăn cản việc giết hại đàn gia xúc, bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp. Việc trao đổi buôn bán của nhân dân đã được thuận lợi hơn(21)). Riêng năm 1732, chúa Trịnh Giang đã cho thực hiện nhiều cải cách tích cực trong chính sách thuế: bãi bỏ thuế sản nghiệp. Tình trạng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng và nội thương bị đình đốn. Đã có lúc Triều đình nhận thấy chế độ thuế khóa cùng nạn tham nhũng, ức hiếp của bọn quan lại có ảnh hưởng đến giá cả của thị trường. Chẳng hạn, quyết định bãi bỏ thuế chuyên lợi về muối chứng tỏ Nhà nước đã bước đầu quan tâm đến giá cả và thị trường. Với chính sách này, Phan Huy Chú có nhận xét: ''diêm hộ nhận bài chỉ đều phải có lễ to, mà giá muối công lại càng cao cho nên họ phải bán giá cao cho thương nhân bán lẻ. Những người bán lẻ khổ vì bọn diêm hộ bóc lột lại phải tăng giá lên. (Vua). Có biết tệ ấy, đến đây mới sai bỏ phép thuế chuyên lợi, cho dân miền biển được nấu lấy muối và buôn bán tự do, dân cho là tiện" [12, tr.80]. Sự phát triển của công thương nghiệp(22)) khiến cho các sở tuần ty có được nguồn thu nhập đáng kể. Trong khi ruộng đất công bị thu hẹp, nhà nước đã thực hiện chính sách dùng các bến đò và chợ để cấp ngụ lộc cho quan lại. Chẳng hạn, năm 1723, chúa Trịnh Cương đã có lệnh chỉ: ''định thuế đò 6 nơi. Sông lớn 1 đồng: chia 3 phần, để 1 phần cho quan trưng thu làm ngụ lộc" [12, tr.82]. Cũng năm này, những sở tuần ty được đem dùng làm ngụ lộc. Chính sách này giúp Triều đình bớt được nhân viên thu thuế, nhưng mặt khác, khó tránh khỏi nạn tham nhũng của những người được cấp ngụ lộc. Để hạn chế sự lũng đoạn, ức hiếp tô thuế của các quan lại, cản trở việc lưu thông hàng hoá, các chúa Trịnh đã cho thực hiện một chính sách khá độc đáo, đó là cho phép hình thành một loại chợ chùa hay còn gọi là "chợ Tam Bảo". Các nhà nghiên cứu qua nguồn bi ký, đã thống kê được một số lượng khác lớn gồm khoảng 16 chợ kiểu này trên khắp đàng Ngoài [54, tr.54]. Có chợ chùa, địa phương sẽ tránh được sự phiền hà, quấy rối o ép về thuế và các khoản nộp khác của các cấp chính quyền, đồng thời loại trừ được những kẻ lợi dụng địa vị, chức quyền chiếm chợ làm của riêng. Các chúa Trịnh đã ''kết hợp cả vương quyền và thần quyền để bảo vệ quyền lợi kinh tế của triều đình" [54, tr.60]. Đây có thể coi là một chính sách khá linh hoạt của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho thương nghiệp địa phương phát triển. Một điều đáng lưu ý ở thế kỷ XVII - XVIII là sự thay đổi trong cách nhận thức về hoạt động thương nghiệp và thái độ đối với thương nhân của Nhà nước. Trong lúc kinh tế nông nghiệp đi xuống và do đó kéo theo sự sa sút của đời sống kinh tế nói chung, thì chính thương nghiệp đã làm giảm nhẹ được tình hình căng thẳng về quan hệ cung cầu của sinh hoạt nhân dân. Trong lệ bãi bỏ thuế tuần ty (1743) chúa Trịnh Doanh đã nói: “ngày nay tài lực của nhân dân thiếu hẳn đi, chỉ còn trông vào bọn phú thương chuyên chở lưu thông chỗ có đến nơi không thì mới tạm đủ” [12, tr.85]. Rõ ràng từ chỗ coi nghề buôn là “mạt nghệ”, nay Nhà nước đã công nhận vai trò quan trọng của nó trong cơ cấu kinh tế xã hội. Thay đổi cách nhìn nhận về vai trò của hoạt động thương nghiệp cũng tức là có sự đánh giá khác đi với tầng lớp thương nhân. Alexander de Rhodes trong hồi ký của mình đã tả lại cảnh đăng quang của nhà vua, "trong đó đại biểu của phường buôn và phường thợ được thay mặt nhân dân Kinh đô vào chúc mừng “vị minh chủ” mới" [2, tr.42]. Những chính sách phù hợp nêu trên đã góp phần tạo nên một mạng lưới nội thương rộng lớn, thị trường có chiều hướng thống nhất. Trong một tấm bia khắc ở chùa Thiên ứng (Hải Dương) năm 1707, có ghi lại danh sách ''51 xã thuộc 33 huyện của các tỉnh Bắc Trung Bộ và miền Bắc hiện nay, chứng tỏ các nơi đó đã có quan hệ buôn bán với phố Hiến" [86, tr.192]. Đồng thời, điều đó cũng phản ánh một bước phát triển chưa từng thấy của nội thương Đàng Ngoài thời kỳ này. Đối với ngoại thương, trong thế kỷ XVII - XVIII, chính quyền Đàng Ngoài thi hành chính sách mở cửa về ngoại thương. Thực hiện chính sách này một mặt là do nhu cầu của triều đình, mặt khác cũng do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế hàng hoá ở trong nước và công cuộc tìm kiếm thị trường của các nước tư bản phương Tây đã kích thích mạnh mẽ các hoạt động thương nghiệp ở đàng Ngoài. Sự mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với tất cả các nước muốn đặt quan hệ thông thương là thể hiện rõ nhất tính chất linh hoạt và tích cực trong các chính sách thương nghiệp của chính quyền Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII - XVIII(23). Các chúa Trịnh đã nhiều lần viết thư và gửi tặng phẩm cho người đứng đầu các công ty, thương đoàn đến quan hệ buôn bán với Đàng Ngoài để bày tỏ nhiệt tình sẵn sàng tiếp đã i các khách buôn ngoại quốc. Trong thư gửi Phó toàn quyền Hà Lan ở Đài Loan, Trịnh Tráng viết: '' mong rằng tàu thuyền của ngài hàng năm đến mua và bán tuỳ sở thích" [106, tr.37]. Cũng trong thời gian này, vào năm 1624, Trịnh Tráng viết thư cho vua Nhật Bản với mong muốn có quan hệ thông thương quy mô lớn: ''mùa hè vừa qua thuyền trưởng Tsunogura, người xứ ngài, đưa 2 chiếc tàu đến buôn bán ở xứ chúng tôi. Bởi chúng tôi muốn có quan hệ tốt với chính quyền của ngài hơn là với những thương gia nhỏ bé này, chúng tôi yêu cầu họ cho biết về xứ sở của ngài…" [82, tr.89]. Các phố khách, thương điếm của thương nhân ngoại quốc được phép lập nên tại một số trung tâm đô thị như Kinh Kỳ, phố Hiến, Hội Thống… và hoạt động trong một thời gian dài đã phản ánh kết quả của chính sách mở cửa khá năng động của chính quyền Lê - Trịnh ở thế kỷ XVII - XVIII. Thời kỳ này, các chúa Trịnh thực hiện một chính sách kiểm soát hết sức chặt chẽ. Tất cả các thuyền buôn nước ngoài trước khi đem hàng ra bán đều phải được kiểm tra tất cả các loại mặt hàng. Sau đó chính quyền sẽ cấp giấy lưu thông cho những hàng hoá đó và còn phải ''… trả tiền nhập cho các hàng hoá và tiền đỗ bến trước khi có lệnh dỡ hàng" [104, tr.127]. Thực ra món gọi là ''tiền nhập cho các hàng hoá" không phải là thuế đánh vào hàng nhập khẩu. Đó chỉ là điều kiện để có thể được buôn bán. Điều kiện đó là phải nộp cho vua chúa một số tiền đặt hàng trước tuỳ theo sự điều đình giữa 2 bên. Các chúa đàng Ngoài ''thường đòi khoảng 100 000 lạng bạc" [104, tr.28]. Mặt khác, chính quyền Lê - Trịnh chủ yếu chỉ cho phép thương nhân nước ngoài mua bán với Triều đình. Hay nói cách khác, cũng như chính sách trong nội thương, nhà nước cố gắng giành độc quyền mua bán. Chẳng hạn, người Hà Lan khi thông thương với Đàng Ngoài ''thì cứ theo lệ cũ, mua 25000 lạng bạc tơ của chúa, 10000 lạng bạc tơ của thế tử và của một số đại thần" [64, tr.176]. Việc độc quyền mua bán của Nhà nước trong ngoại thương mang tính 2 mặt. Một mặt kìm hãm sự phát triển của thủ công nghiệp, mặt khác bảo đảm sự bình ổn của giá cả. Những thương nhân Anh đã thừa nhận: “không thấy có cảm tưởng về một sự tăng giá gây nên bởi hiện tượng cung ít, cầu nhiều” [86, tr.153]. Những chính sách tích cực về ngoại thương đã góp phần làm cho kinh tế công thương nghiệp Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII phát triển đột biến. 4. Kết quả và những hạn chế của các chính sách ổn định và phát triển kinh tế Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII 4.1. Sự phát triển của một số trung tâm đô thị ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII Tại trung tâm Thăng Long - Kẻ Chợ vốn là trung tâm kinh tế, văn hóa - Kinh đô của đất nước từ thời Lý (1010). Kinh đô Thăng Long thời Hậu Lê vừa là thủ phủ chính trị của Đàng Ngoài với những cung Vua, phủ Chúa tráng lệ nguy nga vừa là trung tâm kinh tế bao gồm những phường thủ công chuyên nghiệp và khu vực buôn bán trao đổi sầm uất. Trong thế kỷ XVII - XVIII, Thăng Long - Kẻ Chợ có 36 phố phường. Đặc biệt, “trừ một số ít ỏi bán đồ ăn thức uống như phố Hàng Bún, Hàng Cháo, Hàng Mắm, Hàng Rươi, Hàng Giò…còn hầu hết là bán các sản phẩm thủ công phục vụ cho vua quan và đông đảo dân chúng” [6, tr.66] Các phường thủ công tập trung ở vùng ven trung tâm như phường Yên Thái làm giấy; phường Thụy Chương dệt lụa, vải; phường MãVĩ làm đồ đài, đồ hát tuồng; phường Đông Tá làm nghề bạc; phường Nam Ngư làm sơn; phường Ngũ Xá đúc đồng… Ngoài một số phường thủ công còn có một số phường buôn bán như phường Đồng Xuân, phường Đông Tác, phường Gia Ngư, phường Hội Vũ, phường Kim Cổ… Những phường thủ công hoặc buôn bán ở Thăng Long đều có những cửa hàng nhỏ. Phường thủ công buôn bán sản phẩm tại chỗ do phường sản xuất ra. Phường buôn thường bán chuyên một số mặt hàng ví dụ như: Hàng Lược, Hàng Hài, Mã Mây, Hàng Tre, Hàng Muối… Quy mô của Kẻ Chợ - Thăng Long ở thế kỷ XVIII được Alexandre de Rhodes miêu tả “dài bằng sáu ngàn bước và rộng cũng khoảng như vậy. Phố phường rất rộng và có thể cho 10 hay 12 con ngựa qua lại dễ dàng” [2, tr.16]. Ông còn cho rằng dân số Thăng Long lúc này có thể lên tới một triệu người(?). Những ngày chợ phiên, dân các làng ở ngoài thành Thăng Long đem hàng hóa vào các chợ trong thành trao đổi, mua bán. Mạng lưới chợ ở Thăng Long dày đặc, trải rộng khắp thành phố. Những phố lớn, nổi tiếng thường bị đánh thuế. Chợ thường họp ở những khu vực trung tâm, hoặc các của ô nơi có bãi đất rộng, ở đây có những lều quán dựng sẵn, song phần lớn người dân đến họp chợ mua bán náo nhiệt ở khu vực chợ ngoài trời. Có những chợ họp hàng ngày, có chợ họp theo phiên chẵn, lẻ xen kẽ nhau. Chợ Bạch Mãở Thăng Long được coi là một trong tám cảnh điển hình của bộ mặt Thăng Long thời kỳ này. Năm 1736, sứ thần Trung Quốc là Ngụy Tiếp đến đây đã làm thơ miêu tả: “Buôn bán lũ lượt trập trùng đua chen…”. Phạm Đình Hổ trong sách “Vũ trung tùy bút” đã miêu tả cảnh chợ Bạch Mã mua bán huyên náo, trong đó có cả những kẻ bất lương móc túi, trộm cắp, những người nước ngoài đến đây dự báo rằng: “Có tới năm mươi ngàn người bán lẻ ở nhiều địa điểm trong thành phố. Vì thế có thể kết luận đến mua thì đông vô lượng” [2, tr.17]. Do vị trí đầu mối của trục giao thông và có mật độ cư dân đông đúc, lại là thủ phủ hành chính của chính quyền Đàng Ngoài nên lượng hàng hóa tiêu thụ ở Thăng Long rất lớn và phong phú, trong đó chủ yếu là hàng nông sản và hàng hóa thủ công nghiệp. Các thuyền buôn của thương nhân trong nước và nước ngoài cập bến Đông Hà (phố Hàng Chiếu ngày nay), nơi tiếp xúc với sông Hồng. Từ bến đó, hàng hóa được bốc dỡ có thể đem bán tại Thăng Long hoặc chuyển đi những địa phương khác. Có thể nói, Thăng Long - Kẻ Chợ ở thế kỷ XVII - XVIII, chính là nơi tập kết, trạm trung chuyển quan trọng cho các luồng giao thương với đồng bằng Bắc Bộ, vùng thượng du và vùng miền trung Thanh - Nghệ. Trung tâm Phố Hiến ở Đàng Ngoài được coi là nơi đô thị thứ hai sau Thăng Long: “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Phố Hiến có vị trí thuận lợi bởi nằm ngay cạnh một con sông lớn và không quá xa kinh thành Thăng Long. Chính sách hạn chế không cho người nước ngoài đến buôn bán trực tiếp ở Thăng Long mà chỉ được phép cư ngụ và lập thương điếm ở Phố Hiến, làm cho trung tâm này phát triển. Phố Hiến và vùng ngoại vi có trên 21 phường, trong đó có 8 phường thủ công. Dựa vào bia tây chùa Hiến (1709) và bia chùa Chuông (1711) đều ở địa phận Phố Hiến, chúng ta biết đó là các phường sau đây : 1 - Phường Đê Cũ (Cựa đê thị ) 2 - Phường Ngoài đê (Ngoại đê thị) 3 - Phường trong đê mới (Thuỷ đê nội thị) 4 - Phường Của sông (Hà khẩu thị) 5 - Phường Bia hậu (Hậu bia thị) 6 - Phường Thuỷ giang nội (Thuỷ giang nội thị) 7 - Phường Thuỷ giang ngoại (Thuỷ giang ngoại thị) 8 - Phường Hàng thịt (Hàng nhục phường) 9 - Phường Vạn mới (Vạn mới thị) 10 - Phường Hàng Sũ (Hàng sũ phường) 12 - Phường Thợ nhuộm (Nhiễm tác phường) 13 - Phường Nồi đất (Thổ oa thị ) 14 - Phường Hàng cau (Mộc lang phường) 15 - Phường Hàng chén (Hàng chén thị) 16 - Phường Hàng cá (Hàng cá phường) 17 - Phường Thuộc da (Thuộc bì thị) 18 - Phường Hàng nón (Hoa lạp thị) 19 - Phường Hàng sơn (Hàng sơn phường) 20 - Phường Cửu cái (Cửu cái phường) 21 - Phường Hàng bè (Hàng bè phường) [86, tr.42]. Từ bản danh mục nói trên nổi lên 2 điểm dáng chú ý : Một là, trong khi ghi tên các phường, tác giả để nguyên tên môn thực của chúng như Ngoài đê, Vạn mới, Hàng cá, Hàng bè... Điều này chứng tỏ rằng, đó là những phường của người Việt. Hai là, trong số 20 phường này có 8 phường thủ công và đó là nét đặc sắc của Phố Hiến, làm cho nó khác với các đô thị cùng loại đương thời như Hội An, Thanh Hà, Nông Nại và bác bỏ quan niệm của Dumoutier hay của C.Maybon cho rằng nó chỉ là một phố chợ. Sự xuất hiện của các phường, đặc biệt là phường thủ công đã thể hiện tính chất hoàn chỉnh của một đô thị trung đại mà người dân Phố Hiến đã cố công tạo nên. Theo những thông tin thu được, người Hoa ở đây chủ yếu làm nghề y, bán thuốc Bắc, vải vóc, mật hương... Cũng có một vài cơ sở mua tơ lụa cho hai, ba phú thương chuyên đóng thuyền sang buôn bán với Nhật Bản. Trong lúc đó, hoạt động thủ công nghiệp chủ yếu nằm trong tay người Việt. Họ dần dựng nên một khu phố mới ở phía đông bắc của phố Bắc Hoà và mang tên Nam Hoà. Thời điểm hình thành các phường và phố Nam Hoà có lẽ xảy ra vào nửa thế kỷ XVII, vì năm 1688 khi qua đây, Phạm Đình Khuê đã viết: “ Nơi này có vài chục phố phường (Kì địa hữu nhai sổ thập)” [86, tr.57]. Chỉ có điều ông gọi đó là phố Thiên Triều. Như vậy có thể nói rằng khoảng thời gian từ nửa sau thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVIII là giai đoạn phát triển và phồn vinh của Phố Hiến. Nhà thơ địa phương đương thời là Lê Cù đã ghi lại điều đó trong bài phú “Bán nguyệt hồ ” với câu: "Chữ Hiến Nội hãy ghi lời bác khách Cảnh Hiến Nam giành đệ nhất phong quang" [86, t.57]. Về mặt phạm vi, Phố Hiến không còn đóng khung lại ở góc tây nam thị xãHưng Yên ngày nay nữa mà đã mở rộng ra về phía đông và đông bắc. Bấy giờ lị sở của huyện Kim Động cũng rời về Đằng Châu, tạo điều kiện cho Phố Hiến phát triển hơn nữa. Chợ Nhân Dục trở thành chợ lớn nhất trong tỉnh hạt. Bến đò Hương Dương (tức Hoa Dương), bến đò Kệ Châu đều là những bến sông lớn, nơi dỡ hàng và thu thuế các thuyền buôn. Sự phát triển của Phố Hiến thể hiện những biến đổi lớn lao của cơ cấu kinh tế cổ truyền Việt Nam thời trung đại, đồng thời cũng minh chứng cho kết quả những chính sách mang tính tích cực của các chúa Trịnh trong kinh tế và xãhội, đặc biệt là trong thế kỷ XVII - XVIII. IV. Những hạn chế trong các chính sách kinh tế 4.1.Trong kinh tế nông nghiệp Hạn chế trước hết của chính sách nông nghiệp là nằm ở các chính sách thuế. Trong thế kỷ XVII, phép "bình lệ" của chúa Trịnh là một chính sách tỏ ra không phù hợp. Tuy mức thuế có nhẹ, nhưng theo chính sách này quyết định “người chết không trừ, người thêm không tính” kéo dài đến 50 năm sẽ tạo ra những gánh nặng cho người dân từng vùng khác nhau. Mặc dù những năm mất mùa, đói kém chúa Trịnh cho thực hiện xoá thuế, ân xá, giảm tô thuế, phát chẩn... Nhưng trong thực tế những biện pháp nhỏ giọt đó không giải quyết được khủng hoảng trong kinh tế nông nghiệp. Bởi vấn đề căn bản là vấn đề phân chia ruộng đất và thuế vẫn không có chính sách phù hợp mang tính chiến lược lâu dài. Hạn chế này chính là nguyên nhân trực tiếp nổ ra các cuộc khởi nghĩa nông dân lúc bấy giờ. Việc cải cách thuế, giảm thuế nông nghiệp của các chúa Trịnh đã góp phần vào sự ổn định và phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, nó chưa giải quyết được vấn đề, nhất là đối với người nông dân không có ruộng đất, phải làm tá điền cho địa chủ thì mức tô còn phải chịu nặng hơn. Theo Bản điều trần của Bùi Sỹ Tiêm năm 1731 thì mức tô được tính như sau: ''... lấy 1/10 nộp thuế, còn bao nhiêu chia đôi, một nửa cho chủ ruộng y theo lệ cũ" [42, tr.182]. Do đó, dẫn đến tình trạng trên thực tế ''mức tô thường là 1 quan 5 tiền đến 3 quan, có khi lên tới 5 hay 8 quan một mẫu" [90, tr.193]. Tức là gấp khoảng 3 hay 4 lần mức thuế của nhà nước. Từ giữa thế kỷ XVIII chính quyền Lê Trịnh còn nhiều lần cho thu thêm ''thuế gia tô". Đây là ách nặng nề đối với người nông dân(24). Bên cạnh đó, chính sách ban cấp ruộng đất cho nhiều đối tượng khác với số lượng người được ban cấp không nhỏ đã làm cho ruộng đất công làng xãbị thu hẹp dần, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống của người nông dân vốn chỉ trông vào việc canh tác, trồng cấy trên phần ruộng đất công của các làng xã. Cho đến đầu thế kỷ XVIII, nhìn đại thể ở địa bàn Đàng Ngoài phân hóa ruộng đất ở nông thôn đã có bước phát triển đáng kể. Cùng với quá trình này, hệ quả tất yếu diễn ra là sự phân hóa giai cấp cũng được đẩy mạnh thêm một bước. Giai cấp địa chủ được tăng cường kể cả thế lực kinh tế lẫn chính trị đồng thời với quá trình đó là sự bần cùng hoá nông dân. Sự ưu tiên phân cấp ruộng đất công cho binh lính, quan lại cũng như những chính sách tạo điều kiện cho ruộng đất tư hữu phát triển đã dẫn đến tình trạng từ những năm 30 của thế kỷ XVIII, "những người không nộp tiền dung điệu, nhận hết ruộng tốt người chịu nặng thuế má, giao dịch chỉ nhận được loại ruộng thừa gầy, xấu mà thôi" [90, tr.279]. Ngoài ra, chủ trương phong cấp cho quan lại ăn thuế ruộng đất làm thái ấp, chế độ ban cấp xãdân lộc đã tạo nên một ách áp bức bóc lột mới đối với người cày ruộng. Từ những chính sách ruộng đất của các chúa Trịnh cho thấy, mặc dù bãi bỏ chế độ lộc điền và các chính sách phong cấp khác, nhưng trên thực tế chính quyền Đàng Ngoài vẫn lấy ruộng đất công ban cấp cho quan lại, binh lính, hoàng thân. Việc ban cấp này đã chiếm một số lượng diện tích không nhỏ ruộng đất công làng xãtrong khi chế độ quân điền bị phá sản, rỏ ràng sẽ ảnh hưởng trực tiếp theo hướng tiêu cực đến đời sống của người nông dân. 4.2. Trong kinh tế thủ công nghiệp Như đã trình bày, trong thế kỷ XVII - XVIII, Nhà nước vẫn duy trì chế độ công tượng. Các xưởng thủ công nhà nước được gọi là ''Cục bách công". Phương thức sản xuất của các xưởng này theo chế độ trưng tập và cưỡng bức lao dịch nặng nề. Những đợt tuyển thợ giỏi vào Nội phủ đã trở thành cái nạn đối với thợ thủ công ở các địa phương. Biết bao người thợ tài hoa đã phải chôn vùi tài năng vì sợ bị bắt vào các công xưởng. Năm 1734, Triều đình còn ra đạo luật ''cấm nhân dân không được đua nhau chế tạo thứ lạ, thứ khéo, dùng đồ đạc quá với chức phận của mình" [103, tr.492]. Những chính sách này đã tác động một cách tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của các ngành thủ công nghiệp. Hơn nữa, các xưởng thủ công của nhà nước chỉ chủ yếu dùng để sản xuất những sản phẩm phục vụ cho chiến tranh và xây dựng cung thành, lăng tẩm chứ không phải sản xuất hàng hoá. Trong ngành khai thác mỏ, mặc dù chính quyền Đàng Ngoài đã chú trọng phát triển khai thác, nhưng cách thức trưng thu thuế thổ sản và bắt người khai mỏ phải bán số sản phẩm còn lại cho Nhà nước đã làm cho người khai mỏ gặp không ít khó khăn. Chính sách hạn chế số phu trong mỗi trường mỏ: nhiều nhất là 300 người cũng sẽ hạn chế sự phát triển các công trường thủ công cả về quy mô và số lượng. Không phải thực hiện chính sách ''ức thương'' nhưng thời kỳ này nhà nước muốn độc quyền trong kinh tế công thương nghiệp, nhất là đối với các mặt hàng đem lại nguồn lợi lớn cho nhà nước, như muối, đồng, quế. Người sản xuất chỉ được phép bán các sản phẩm làm ra cho Nhà nước theo giá quy định. Năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1716), nhà nước bãi bỏ lệnh cấm khai thác vỏ quế với điều kiện: cho phép người bóc vỏ quế khai thác được bao nhiêu nộp thuế cho nhà nước 1/2 sản phẩm, số còn lại bán lại cho Nhà nước theo giá quy định, 500 cân thì định giá 5 quan tiền [12, tr.74]. Đến năm Bảo Thái thứ nhất (1720), Triều đình quy định về việc khai thác vỏ quế hết sức khắt khe như sau: ''quan giám đương hầu chỉ cấp bằng cho quế hộ. Các quế hộ trước khi vào rừng khai thác phải đến trình bằng và nộp lễ 10 quan tiền quý. Quan cấp giấy cho phép bóc bao nhiêu cân, lại sai người đi báo cho xãdân biết; cho sao bản giấy phép giữ lấy tiền bằng, rồi quế hộ mới được phép đi lấy quế. Bóc xong lại báo cho quan bản chấn rõ ràng… khi đi đường qua các tuần ty, cứ chiếu bài chủ kiểm đúng mới cho đi. Đến Kinh đô, cứ 100 cân định giá 100 quan tiền thì đánh thuế 1/2, rồi cho quế hộ đem bán… thuyền buôn đến mua thì làm tờ khải, đợi lệnh cho mua bao nhiêu thì theo lời chuẩn giá cho nộp thuế. Cứ 100 cân thì định giá 100 quan tiền quý và chịu thuế 1/2, tức là 1 quan tiền quý thì nộp 5 tiền… Khách buôn khi mua trở về thì trấn quan lại sai lính đưa ra khỏi địa hạt, cứ mỗi lần phải nộp 10 quan tiền quý" [12, tr.74]. Đối với thuế muối, Nhà nước quy đinh: ''… tính số muối nấu được chia 10 phần, nộp 2 phần làm muối công. Quy định các diêm hộ, người nào có bài chỉ của quan dám đương mới được đến trường muối, trước hết, phải mua muối công, rồi mới được mua muối của táo đinh, cấp đủ số trong bài chỉ thì thôi. Mua bán đều phải có giấy giao muối làm bằng" [12, tr.75]. Năm 1759, Triều đình còn có lệnh ''ai muốn lĩnh muối công đi bán thì được miễn thuế" [12, tr.6]. Cũng năm 1720, chính quyền Đàng Ngoài quy định về thuế và thể lệ khai thác đồng như sau: lái buôn phải làm giấy phép, nộp 3 nén bạc lễ mừng cho Chúa để trở thành ''đồng hộ", thuyền đến mỏ thì nộp 6 quan tiền quý gọi là tiền khán; đến ngày về, thuyền qua tuần ty nộp bài chỉ và nộp thêm 10 quan tiền khán; khi về đến kinh sư, đem nộp giấy cho quan giám đương. Quan giám đương chiếu theo lệ: 100 cân đáng giá 15 quan tiền quý thì thu thuế 3/10 cho về cất giữ; có thuyền đến mua thì làm tờ khải lên và phải mua bán đúng giá 100 cân giá 15 quan. Và nộp thuế 3/10, từ 1 quan 5 tiền quý thì phải nộp thuế 4 tiền 36 đồng" [12, tr.77]. Từ năm 1759, chính quyền Lê Trịnh nắm hẳn độc quyền mua bán đồng. ''Các mỏ phải bán toàn bộ số đồng khai thác được cho nhà nước với giá 20 quan 100 cân" [90, tr.223] . Như vậy, mức thuế thổ sản có thời điểm, một số loại phải chịu đến hơn 50% sản lượng khai thác. Đây là một gách nặng mà người sản xuất khó có thể đương nổi. Đặc biệt, dễ dàng nhận ra trong thời kỳ này, mặc dù thực hiện chính sách mở cửa, song chính quyền Đàng Ngoài không chú ý vào việc tiếp thu khoa học kỹ thuật phương Tây. Các mặt hàng nhập vào là những sản phẩm của nền công nghiệp tư bản đang phát triển. Triều đình Đàng Ngoài mới chỉ biết hưởng thụ sản phẩm do nền khoa học kỹ thuật tiên tiến mang lại, song không chú trọng tiếp thu luồng tri thức mới. Do tính thực dụng trong chính sách kinh tế công thương nghiệp của các chúa Trịnh đã khiến người Việt thời kỳ này khó có thể tiếp cận được với khoa học kỹ thuật của phương Tây. 4.3. Trong kinh tế thương nghiệp Hoạt động buôn bán ở nông thôn Đàng Ngoài mang tính hai mặt, một mặt vừa khẳng định bước phát triển của kinh tế hàng hóa, mặt khác nó còn là một giải pháp giải quyết tình trạng bế tắc của kinh tế tiểu nông. ở đây nông dân vừa là người làm ruộng vừa là người làm nghề thủ công và buôn bán nhỏ, tức là họ kiêm vai trò thợ thủ công và thương nhân. Sự kiêm nhiệm đó khiến chức năng kinh tế trong điều kiện vốn liếng ít có thể duy trì được mức sống tối thiểu của người nông dân chứ không phải thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh được. Muốn thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển không thể không có những chính sách cụ thể của nhà nước. Nhưng trong thế kỷ XVII - XVIII, các chúa Trịnh ít quan tâm phát triển nội thương. Quan điểm của chính quyền Đàng Ngoài lúc này là, kinh tế nông nghiệp vẫn quyết định và vẫn là nguồn thu thuế quan trọng nhất của nhà nước. Điều này dẫn đến sự cấm đoán khắt khe của nhà nước, khiến ở nông thôn Việt Nam thời kỳ này, thương nghiệp chỉ là ''mạt nghệ", phụ thuộc vào sản xuất nhỏ, không có vốn lãi lớn, chưa có hiện tượng chuyển tư bản thương nghiệp sang tư bản công nghiệp. Sự phát triển của thương nghiệp chủ yếu trong phạm vi một nền kinh tế tiểu nông chứ chưa phá huỷ được nền kinh tế đó. ''Thực tế thương nghiệp không tạo thành mũi nhọn kinh tế tấn công vào kết cấu cũ mà lại chỉ là một bộ phận trong kết cấu cũ, duy trì kết cấu đó" [51, tr.164]. Những người châu Âu đến Đàng Ngoài bôn bán đã nhận định tình hình nội thương: ''buôn bán chỉ tiến hành theo từng bộ phận nhỏ và lẻ; không có lấy một lái buôn nào ở trong nước thuộc quyền vua Đàng Ngoài buôn bán với những quy mô to lớn, hoặc chỉ là có thể buôn bán lớn được. Lái buôn đồng thời là chủ thuyền và có rất ít là chủ được 2 chiếc thuyền to hoặc nhỏ… buôn bán còn có những trở ngại khác trong những khuyết điểm của chế độ hiện thời ở Đàng Ngoài: sự nghèo nàn của lái buôn, hầu như không có lấy một người nào có của cải được hơn 20 000 livre làm vốn, và lại càng ít người có lấy một khoản khá để kinh doanh đáng kể; sự cần thiết phải khất với khách nước ngoài đã bán cho họ hàng hoá xin một thời gian để thanh toán tiền mua và tiền bán lại hàng" [104, tr.94]. Tình trạng chủ yếu hoạt động theo kiểu tiểu thương một phần là do tâm lý trọng nông của người Việt. Đa số các thương nhân khi phát đạt không tiếp tục đưa số tiền thặng dư để mở rộng quy mô kinh doanh, mà thường quay về tậu ruộng làm nhà: ''Bao giờ hàng ế tơ cao - rủ nhau đi gánh bùn ao đổ đồng" [15, tr.59]. Hơn nữa, phần lớn việc buôn bán là do phụ nữ đảm nhiệm. Do đó, đã tạo nên cảnh ''nghèo nàn" của các thương nhân người Việt. Trở ngại lớn nhất đối với các thương nhân là những chính sách cấm đoán của Triều đình. Người phương Tây khi đến Đàng Ngoài ghi lại: ''Người dân chỉ biết buôn bán dọc theo bờ biển mà không dám ra ngoài khơi vả lại họ cũng bị cấm đoán không được rời khỏi đất nước, dù là tạm thời nếu không sẽ bị trừng trị... chúa Trịnh không cho phép xuất dương để có đông dân chúng đóng sưu dịch và đi lính" [2, tr.70]. Sự cấm đoán này chưa đến mức như chính sách ''bế quan toả tảng" của nhà Nguyễn sau này nhưng nó cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của công thương nghiệp, làm cho xu hướng phát triển ngành kinh tế này quay về nông nghiệp. ''Đây là xu hướng phát triển luẩn quẩn của công thương nghiệp Việt Nam thời trung đại" [51, tr.128]. Bên cạnh đó, nội thương có bước phát triển nhưng cuộc chiến tranh Đàng Trong - Đàng Ngoài chia cắt đất nước. Sự đối đầu về chiến tranh, tình trạng cát cứ là yếu tố tiêu cực ngăn cản sự thống nhất thị trường trong nước, làm thui chột các yếu tố tiến bộ của xã hội và làm gián đoạn các hoạt động kinh tế bình thường. Willam Dampier đến Đàng Ngoài năm 1688 có một nhận định: ''lẽ ra dân Đàng Ngoài, với những sản phẩm phong phú như thế, phải trở nên giàu có. Thế nhưng đại đa số dân cư lại rất nghèo nàn". ông cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó là ''nền thương mại do thương nhân ngoại quốc nắm giữ" [105, tr.85]. Nhận định này cũng có cơ sở, nhưng xét đến cùng thì nguyên nhân căn bản vẫn là các chính sách của Nhà nước đã làm cho tầng lớp thương nhân vốn nhỏ bé khó có khả năng phát triển. Đối với ngoại thương, nguyên nhân chủ quan chính ở đây nằm trong hạn chế của các chính sách và cách thức tiến hành ngoại thương. Thương nhân phương Tây khi đến Đàng Ngoài buôn bán đều rất khó chịu về những thể lệ và cách thức phiền hà trong hoạt động thương nghiệp. Điều họ ngại nhất là những quy định, luật lệ không được thể hiện bằng văn bản chính thức của nhà nước. Ví dụ, lễ ra mắt ở những nơi khác chỉ là thủ tục ngoại giao thì ở đây lại rất quan trọng. Nó tuỳ thuộc vào lòng tham và ý thức cả các nhân vật cầm quyền dẫn đến cảnh ''những viên quan và tất cả đoàn tuỳ tùng đi theo… nhân danh mệnh lệnh của nhà vua, để lấy bất cứ cái gì mà họ thích, không cần ấn định giá hoặc cách thức cùng thời hạn trả tiền" [86, tr.148]. Thủ tục đánh thuế cũng hết sức tùy tiện. Thuyền nước ngoài có mức thuế khác nhau. Tiền thuế nhiều hay ít không phụ thuộc vào lượng hàng hoá mang đến mà tuỳ thuộc vào sự ưa thích của nhà cầm quyền về những hàng hoá đó. Chẳng hạn, đối với thương nhân Hà Lan, với mức thuế 25 000 lạng bạc hàng năm ''đã chiếm gần 1/2 số vốn trong năm của thương điếm Đàng Ngoài [49, tr.45]; hàng hoá của tàu Zant (Anh), ''giá cả chỉ được nhà vua ấn định sau hơn 1 năm sau khi tàu đến (từ tháng 6 - 1672 đến tháng 9 - 1673). Sau đó, hàng hoá của tàu được định giá là 5890 lạng bạc, sẽ được trả bằng 2/3 tơ và 1/3 tiền đồng" [86, tr.93]; trong khi đó, chiếc tàu Daie mang 10 vạn lạng bạc cập bến đàng Ngoài (1643) thì chúa Trịnh Tráng đòi nộp 50000 lạng để mua tơ cho chúa. “Sau đó định thuế cho người Hà Lan theo lệ: 25 nghìn lạng bạc thuế, 40 nghìn lạng bạc đặt trước để mua tơ" [64; 176]; còn người Nhật Bản "khi sang buôn bán ở Đàng Ngoài thì phải nộp 4000 quan lúc vào và 400 quan lúc đi" [33, tr.172] và ''thường phải nộp cho Chúa 400 kg bạc mới nhận được giấy phép buôn bán ở Đàng Ngoài" [33, tr.127]. Trong khi đó, đối với thuyền buôn Trung Quốc, năm 1749 chúa Trịnh Doanh cho thu theo mức thuế: “tàu thu tiền thuế 800 quan, mành to thu 600 quan, mành nhỏ thu 500 quan” [91, tr.18] Sự độc quyền trong mua bán của Triều đình và các tầng lớp quý tộc đã tạo điều kiện cho bọn quan lại thừa hành sách nhiễu, tham ô gây nhiều thiệt hại cho thương nhân nước ngoài. Các thương nhân muốn mua được nhiều hàng phải đặt tiền trước và không được mua trực tiếp ở dân. ''Nhà buôn nước ngoài buộc phải đặt tiền trước cho họ. Tiền đặt trước đến hai ba tháng hay hơn nữa trước ngày sản phẩm đem giao cho nhà buôn. Vì thế mà các tàu bắt buộc phải ở lại thường là 5 hay 6 tháng" [105, tr.60]. Từ độc quyền dẫn đến độc đoán trong chính sách thương mại của chính quyền Lê - Trịnh. Các chúa Trịnh bắt thương nhân nước ngoài phải buôn bán những mặt hàng mà Triều đình cần, nếu không họ sẽ có khả năng bị trục xuất. Ví dụ, năm 1682, Trịnh Căn dọa trục xuất người Hà Lan khỏi Đàng Ngoài nếu Batavia không tăng giá trị quà biếu. Sau đó, trong 2 năm 1688 và 1689 chúa Trịnh đã ngừng gửi thư cho Toàn quyền Hà Lan bởi họ không gửi đến Đàng Ngoài những món hàng của Chúa yêu cầu. Năm 1691 Trịnh Căn lại đe dọa đuổi người Hà Lan ra khỏi Kinh thành bởi Batavia không gửi đồ pha lê mà Chúa đã đặt hàng năm trước. "Năm 1693, Phủ chúa bắt quan giám đốc thương điếm Hà Lan Jacob Van Loo và thuyền trưởng Westbroek do người Hà Lan không kịp đưa đến cho Chúa loại hổ phách cao cấp. Năm 1694, 'Thế tử tống giam thương nhân Gerrit Vem Nes và viên thông ngôn sau khi thương điếm từ chối cho Thế tử vay 200 lạng bạc" [49, tr.51]. Điều đáng chú ý là các loại vũ khí như súng, đạn dược, thuốc nổ và những đồ dùng xa xỉ cho vua chúa và quan lại là những mặt hàng chủ yếu được chính quyền Đàng Ngoài đặt mua. Khoảng năm 1641, Trịnh Tráng gửi thư cho Toàn quyền Hà Lan đòi 5 chiến hạm, 600 binh lính vũ trang đầy đủ, vài trăm đại bác, 200 pháo binh. Sau khi vẫn không giành được thắng lợi quyết định ở cuộc chiến thứ 3, Trịnh Tráng lại yêu cầu người Hà Lan gửi thêm 200 chiến hạm và 4 vạn binh lính… " [64, tr.176]. Đây là yếu tố làm cho Đàng Ngoài mạnh, nhưng sau đó cũng khiến cho Đàng Ngoài phải trả giá. Những gì diễn ra cho thấy, chính sách ngoại thương của chúa Trịnh thể hiện tính chất thực dụng rõ rệt, chủ yếu phục vụ cho lợi ích của tập đoàn phong kiến, khiến nó mang một tính chất đặc biệt: ''không phải là tiến hành giữa những nước có nền kinh tế ngang nhau, cùng một tính chất với nhau. Đó là ngoại thương của một nước kinh tế nông nghiệp lạc hậu với những nước đã và đang phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa" [104, tr.88]. Rõ ràng, trong thế kỷ XVII - XVIII, các chúa Trịnh đã đưa ra nhiều chính sách thúc đẩy kinh tế công thương nghiệp phát triển, nhưng đồng thời chính quyền Đàng Ngoài cũng duy trì những chính sách có tác động riêu cực, kìm hãm sự phát triển của ngành kinh tế này. Đúng như nhận định của một nhà nghiên cứu: ''Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII có những loại chợ phiên như Nhật Bản, có tổ chức kiểu hội chợ như ở phương Tây, có tổ chức thương đoàn, thương vị, thương quán, thương điếm. Có cả khu phố tự trị của thương nhân nước ngoài, dấu hiệu xuất hiện một loại thành thị tự do... thị trường dân tộc tuy chưa ra đời nhưng mạng lưới thương nghiệp trên toàn quốc đã hình thành và có mối liên hệ chặt chẽ. Nhưng những dự báo về thành thị cận đại mãi về sau cũng không hình thành nổi vì thiếu vắng các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa và một nền sản xuất hàng hoá lớn mạnh để chi phối các hoạt động kinh tế - xãhội" [86, tr.95]. Những hạn chế trong chính sách công thương nghiệp của chính quyền Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII - XVIII đã làm cho kinh tế Việt Nam không thể phát triển theo quy luật tự nhiên của nó. V/ Những chính sách ổn định và phát triển xã hội của các Chúa Trịnh 5.1. Những biện pháp củng cố và ổn định các quan hệ xã hội Thế kỷ XVII - XVIII, khi họ Trịnh bước lên vũ đài chính trị, nắm thực quyền điều hành quốc gia Đàng Ngoài, là thời điểm mà người cầm quyền dù muốn hay không cũng phải tìm mọi biện pháp để củng cố và ổn định một xãhội Đại Việt đang có những biến chuyển mạnh mẽ. Sau một quá trình lịch sử phát triển lâu dài, Xã hội Việt Nam đến thế kỷ XVII - XVIII đã được định hình trong một cơ cấu bao gồm khu vực nông thôn và thành thị, trong đó khu vực nông thôn là địa bàn chính. Bởi nơi đây là nơi tập trung đại bộ phận dân cư, cũng là nơi thể hiện đầy đủ nhất tất cả các mối quan hệ xã hội phức tạp. Về cấp độ, có thể chia xã hội Việt Nam thời kỳ này thành ba mức: gia đình - làng xã- nước. Cấp độ thấp nhất trong cơ cấu xãhội Đại Việt thời kỳ này là gia đình. Gia đình là bộ phận cấu thành làng xã. Các gia đình có mối quan hệ huyết thống và láng giềng với nhau trong làng xã. Làng tạo nên nước. Làng là cơ sở của nước, trong đó nghề canh nông như một cây đa cổ thụ được quấn quýt những dây leo chằng chịt những nghề thủ công, nghề buôn bán nhỏ, chăn nuôi… mang tính tự cung tự cấp cao độ. Mỗi làng có đủ và cho là đủ mọi thứ nên dẫn đến tự lập. Tuy nhiên, đến thế kỷ XVII, làng xãViệt Nam đã trải qua lịch sử lâu dài. Trong đó, các triều đại trước đó đã cố gắng kiểm soát, từng bước tìm cách với tay xuống từng người dân. Mặc dù vậy, trên thực tế thì quá trình phong kiến hóa lại diễn ra chậm và chỉ cơ bản được thực hiện nhiều ở thế kỷ XV. Tiếp đó, từ thế kỷ XVII, do nhiều yếu tố tác động mà làng xãcó những biến đổi mạnh mẽ. Trong suốt các thế kỷ XVII - XVIII, đời sống chính trị Đại Việt diễn ra nhiều biến động lớn lao. Chiến tranh liên miên và tình trạnh chia cắt làm cho chính quyền trung ương không còn thống nhất và vững mạnh như thời Lê Sơ, đã tác động sâu sắc đến tình hình xãhội. Mặt khác, thời kỳ này chính quyền Đàng Ngoài cho thực hiện những chính sách chú trọng phát triển kinh tế công thương nghiệp. Theo đó, quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và các nước Phương Tây khá phát triển. Đây là thời kỳ đạo Thiên Chúa được truyền bá vào Việt Nam. Hoạt động giao lưu kinh tế và văn hóa Đông - Tây được tăng cường. Trên nhiều phương diện trong nước và quốc tế, kinh tế và chính trị là các nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến toàn bộ cơ cấu xãhội trong làng xã. Từ thực tế này, bên cạnh những tiêu cực còn có một hệ quả khác là cũng vì thế mà sự chi phối của Nhà nước đến toàn bộ cơ cấu xãhội bị suy giảm, khiến nó diễn biến có phần tự do hơn. Biểu hiện rõ nhất là trong thế kỷ XVII - XVIII, xãhội Việt Nam không chỉ tồn tại duy nhất làng nông nghiệp. Ngay từ các thế kỷ trước, nếu phân loại làng trên cơ sở hoạt động kinh tế chủ yếu thì bên cạnh bộ phận làng nông nghiệp đã thấy xuất hiện nhiều làng nghề. Từ thế kỷ XVII trở đi, số làng nghề ngày càng nhiều hơn, tính chất chuyên nghiệp ngày càng biểu hiện rõ rệt hơn. Ví dụ như làng gốm Bát Tràng, làng gốm Thổ Hà, làng gốm Hương Canh, làng gốm Hàm Rồng, làng chiếu cói Hải Thiện, làng cói Nga Hoàng, làng buôn Phù Lưu… Nhưng dù là loại hình nông nghiệp hay làng công thương nghiệp thì nhìn chung trong thế kỷ XVII - XVIII, đặc điểm lớn nhất của nó là “quan hệ giai cấp rất mờ nhạt. Trái lại, quan hệ đẳng cấp lại rõ nét, vì chỉ có thế nó mới đảm bảo cho sự tồn tại của một chính thể tập quyền cao độ và một xã hội ổn định trong kỷ cương” [52, tr.78]. Chính đặc điểm này mà xã hội nông thôn ở Việt Nam được tạo ra hết sức phức tạp. Bên cạnh quan hệ giai cấp (quan hệ kinh tế) còn hàng loạt các mối quan hệ khác chồng chéo, móc xích nhau, rất khó có thể phân biệt được một cách rạch ròi. Nếu trên khía cạnh cơ cấu kinh tế - giai cấp thì chúng ta có thể thấy xãhội Việt Nam lúc này quan hệ địa chủ - nông dân là quan hệ chủ yếu, vì đây là hai giai cấp trung tâm; Còn ở mối quan hệ đẳng cấp thì trong làng xãcó thể chia ra các đẳng cấp: hạng quan viên - hạng dân chính cư - hạng dân ngụ cư; Nếu xét từ phương diện thứ bậc, thì xã hội Việt Nam thời kỳ này có cấu trúc theo cấp bậc: sĩ - nông - công - thương. Trật tự đó tưởng chừng như là "bất di bất dịch", song thực tế thì xã hội Đại Việt vẫn không ngừng biến đổi. Chặng hạn, do nhiều yếu tố mà thân phận của mỗi người có thể có sự hoán đổi thân thế trong các thứ bậc. Sự biến đổi diễn ra trong thứ bậc được thể hiện qua câu tục ngữ: “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”. Với một cơ cấu xã hội phức tạp như vậy, để củng cố và ổn định các mối quan hệ trong xãhội đó, đòi hỏi chính quyền Đàng Ngoài phải có những chính sách phù hợp. Biện pháp đầu tiên mà chính quyền Lê - Trịnh thực hiện là ổn định chính trị. Các chúa Trịnh cho rằng nguồn gốc của sự bất ổn xãhội là do khủng hoảng về chính trị. Do đó đã cố gắng lập lại sự ổn định về chính trị làm cơ sở để khôi phục kỷ cương xã hội. Thực hiện chủ trương đó triều đình dùng chiêu bài tôn trọng nhà Lê và hệ thống pháp luật nhà Lê, vốn được xây dựng trên nền đạo đức Nho giáo kết hợp với những phong tục truyền thống. Sở dĩ có chủ trương này vì xét cho đến cùng, các chúa Trịnh vẫn cố gắng xây dựng một chế độ quân chủ tập quyền phong kiến hóa mà nhà Lê, với mô hình này trước đó, đã đưa đến một xã hội ổn định vào thế kỷ XV. Mặt khác, nền pháp luật nhà Lê mà tiêu biểu là bộ luật Hồng Đức, với những giá trị vốn có của nó, không chỉ có tác dụng trong thời kỳ Lê sơ mà còn có giá trị đối với tất cả các giai đoạn về sau nên được nhà Lê - Trịnh coi là mẫu mực, là nền tảng pháp luật cơ bản. Bằng cách này các chúa Trịnh hy vọng sẽ lấy lại niềm tin của dân chúng vào Nhà nước và lập lại kỷ cương xãhội theo tư tưởng của Nho giáo. Các chúa Trịnh Tùng, Trịnh Tráng đã cố gắng thực hiện biện pháp này. Nhưng phải đến thời kỳ Trịnh Tạc nắm quyền thì việc khôi phục kỷ cương xãhội với công cụ chủ yếu là các khái niệm Nho giáo về đạo đức, nhấn mạnh đến lòng trung thành với vua và hiếu kính với cha mẹ… mới được đặc biệt đề cao. Chính quyền Đàng Ngoài cho rằng sự phục hồi của đạo lý Nho giáo sẽ đưa các quan chức và dân chúng đến niềm tin và lòng trung thành với bổn phận, gia đình và xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà hai niên hiệu của triều đại của thời kỳ này đều có chữ “Đức”: Khánh Đức (1649 - 1653) và Thịnh Đức (1653 - 1657). Chúa Trịnh Tạc còn cho tu sửa Quốc Tử Giám, đặc biệt quan tâm chăm lo tới lễ tế Nam Giao, Thái Miếu ở kinh đô. Còn tại các địa phương, nhà nước cho thi hành các lễ tế tôn giáo ở các lăng miếu, văn chỉ. Rõ ràng chính quyền Đàng Ngoài cố gắng xây dựng một xãhội phong kiến hóa theo luân lý của Nho giáo. Tháng 7 năm Vĩnh Thọ thứ tư (1656), chúa Trịnh Tạc cho ban hành một lệnh chỉ định rõ phẩm phục và hành vi rất cụ thể cho từng hạng người từ Vương tử xuống đến thứ dân. Mặt khác, Nhà nước cho tăng cường sử dụng tầng lớp nho sĩ. Dùng tầng lớp này để xác lập một xã hội quan liêu tập quyền phong kiến. Bằng cách thức đó, triều đình có thể dễ dàng với tay xuống làng xãvà từng người dân. Năm 1658, Trịnh Tạc lệnh cho các quan huyện trực tiếp chỉ định các xã trưởng được lấy trong số các nho sinh mà trước đó công việc này là do dân tự làng bầu ra. Trịnh Tạc cho rằng, với cách này sẽ có thể vừa chỉnh đốn được trật tự trong làng xã vừa truyền bá được đạo lý Nho giáo trong dân làng. Sự thay thế tầng lớp bô lão bằng tầng lớp nho sĩ diễn ra mạnh mẽ. Vào thế ký XVII, đội ngũ quan lại được bổ nhiệm không cần lưu tâm đến vấn đề tuổi tác. Những quy định về sự kính trọng đối với người cao tuổi trong làng xã vẫn được duy trì nhưng đã bị hạn chế đến mức tối đa. “Bia Mộ Trạch được khắc năm 1669 là xã có nhiều người đỗ đạt, trên bia không thấy ghi sự tham gia của các bô lão về việc lập bia. Còn một bản hương ước được lập năm 1689 quy định về quan hệ giữa 3 xã Dương Liễu, Quế Dương và Mậu Hòa (thuộc Đan Phượng - Hà Tây) ghi rõ có sự nhất chí của quan viên, xã trưởng, thôn trưởng và cuối cùng có sự tham gia của các bô lão” [31, tr.32]. Như vậy, trên thực tế vai trò của tầng lớp bô lão trong làng xãViệt Nam trong thế kỷ XVII - XVIII đã bị lấn át. Điếu này cũng phản ánh vai trò của những luật tục cổ truyền cũng bị giảm sự ảnh hưởng; thay vào đó là sự tăng cường quyền lực của nhà nước bằng hệ thống pháp luật và hành chính của Nhà nước. Cùng với những biện pháp trên, năm 1663, Trịnh Tạc cho ban bố 47 điều "giáo hóa" để phổ biến cương thường, đạo lý. Những nội dung chủ yếu của bản giáo hóa này là tư tưởng Nho giáo, đặc biệt đòi hỏi toàn dân phải quy phục nhà vua cũng như phát triển những mối quan hệ khăng khít giữa các thành viên trong gia đình, họ hàng và làng xã. ở đây, con người không được tự giải phóng mình khỏi gia đình, dòng họ và không được phát triển những ý tưởng riêng của bản thân vì nó có thể sẽ đe dọa đến trật tự đã được thiết lập như là khuôn vàng thước ngọc. Dụng ý của chỉ dụ này là liên kết dân chúng lại với nhau, đề phòng xã hội bị phân tách. Những điều giáo hóa trên thể hiện sự kết hợp giữa luân lý Nho giáo và luật tục cổ truyền trong làng xã. Rõ ràng, các chúa Trịnh vừa muốn cải biến lại vừa muốn lợi dụng tập tục truyền thống để có thể kiểm soát chặt chẽ từng thành viên trong làng xã. Nội dung của bản giáo hóa này được nhắc lại nhiều lần trong suốt hai thế kỷ XVII - XVIII. Song song với việc ban bố những giáo hóa cho toàn dân, các chúa Trịnh cũng chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật, vì đây chính là công cụ quyền lực của chính quyền nhà nước. Pháp luật thời kỳ này về cơ bản nhằm duy trì địa vị của vua chúa. Vì luật pháp thời kỳ này cấm con cái tố cáo cha mẹ mình, nhưng trong trường hợp trung thành với vua chúa thì lại luôn được khuyến khích. Đồng thời với việc bảo vệ quyền lợi tuyệt đối của vua chúa, pháp luật ở Đàng Ngoài thời kỳ này ra sức đề cao vai trò của người đàn ông, người chồng trong gia đình theo tư tưởng của Nho giáo. Vì nếu gia đình có thể tự cai quản dưới quyền uy của người chủ gia đình thì xã hội tự khắc sẽ có kỷ cương. Nhà nước chỉ cần trừng phạt những kẻ gây tan vỡ gia đình và phá hoại cương thường mà không phải trực tiếp can thiệp vào công việc của từng gia đình riêng lẻ nhưng vẫn có thể ổn định được xãhội. Đó là lý do vì sao vai trò của người chồng lại được đề cao, trong khi người phụ nữ bị hạ thấp đến mức tối đa mọi quyền hạn và vai trò của họ trong gia đình cũng như xãhội. Mục đích của các chúa Trịnh là dùng pháp luật để quản lý đến từng người dân. Do đó, triều đình dường như cố gắng đem luật pháp của Nhà nước thay thế cho các luật tục của địa phương, tách những thành viên ra khỏi mối quan hệ chằng chéo trong cộng đồng làng xã. Nếu như năm 1644 chúa Trịnh Tạc còn quy định: “dân xã có người phạm tội thì trong họ, trong xãđều phải nộp phạt 50 quan tiền” [103, tr.307]. Nhưng đến năm Long Đức thứ 6 (1737), chúa Trịnh Giang đã cho ban hành lại điều luật năm Cảnh Thống thứ 6 (1503) và nhấn mạnh: “cấm không được bắt thân nhân, thân thuộc và xã dân của tội nhân phải liên đới chịu tiền phạt hay tiền bồi thường" [47, tr.389]. Trước đó, năm Thịnh Đức thứ nhất (1653), Trịnh Tráng đã ra một lệnh chỉ về quyền được kiện tụng theo từng cấp từ địa phương đến trung ương: trước hết là cấp xãsau đó, đến cấp huyện rồi cấp phủ và lên đến Thừa ty, Hiến ty, đến cấp Cai đạo, Ngự sử đài và cuối cùng vẫn chưa thoả đáng thì có quyền làm tờ khải đưa lên phủ Chúa, lúc đó Chúa sẽ đưa cho tất cả triều thần luận xử [47, tr.401]. Thể lệ này được phổ biến và nhắc lại nhiều lần vào các năm 1654, 1676 và 1758. Không những thế, nhằm giải quyết triệt để các vụ kiện, tránh sự dây dưa ảnh hưởng đến ổn định xã hội. Năm Chính Hòa thứ 8 (1687), chúa Trịnh Căn ra một sắc lệnh quy định rõ hạn xét án: “án về nhân mạng, hạn trong 4 tháng phải xử xong, án trộm cướp và điền thổ hạn trong 3 tháng, án về hộ hôn và đánh nhau cùng các tạp tụng khác thì hạn trong 2 tháng phải xét xử xong” [47, tr.469]. Nhiều vị chúa còn chủ động trực tiếp giải quyết các án tụng. Tháng 8 năm 1723, chúa Trịnh Cương còn cho dựng nhà trạm lớn ở ngoài cửa phủ để làm nơi hỏi kiện vì thấy giấy tờ kiện tụng ứ đọng nhiều [103, tr.442]. Chúa Trịnh Giang còn cho đặt hòm để trực tiếp nhận lời kêu oan [91, tr.140]. Biện pháp này còn được chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm về sau tiếp tục áp dụng. Năm 1742, chúa Trịnh Doanh “cho đặt ống đồng để sĩ dân cả nước, ai muốn bí mật trình bày điều tốt xấu hay kêu oan thì bỏ vào, cứ năm ngày một lần trình lên” [91, tr.184]. Đến năm 1741 lại cho đặt chuông ở cửa tả của phủ để cho dân có thể kêu oan. Năm 1776, Trịnh Sâm cũng "cho treo chuông lớn tại chính đường để trực tiếp xét xử các án tụng của dân chúng" [91, tr.420]. Để hạn chế mối quan hệ hoàng quyền - thần thuộc cũng như sự cát cứ của các thế lực phong kiến, năm Vĩnh Thọ thứ 4 (1708), chúa Trịnh đã ra một đạo dụ: “Cấm phụ đạo các phiên chấn, không được tự tiện đến kinh đô giao lưu với các nhà quyền quý giữ chức trọng yếu. Khi có đại lễ vào chầu không được đem quá 4 người và lưu lại không quá 20 ngày” [91, tr.62]. Một trong những biện pháp có khả năng quản lý tốt xãhội là thông qua sổ hộ khẩu. Năm 1660, Trịnh Căn cho làm sổ hộ và quy định: “cho các xã trưởng khai hết các hạng dân đinh trong xã, từ 10 tuổi trở lên. Cả con trai, con gái, viết thành 6 quyển. Một bản lưu ở xã, một bản lưu ở huyện, một lưu tại Thừa ty, hai bản lưu ở bộ Hộ và một bản lưu tại Phủ chúa. Từ đấy về sau cứ 10 năm xét duyệt lại một lần” [12, tr.51]. Sau đó triều đình hạn định 6 năm một lần làm lại sổ đinh. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố mà những quy định từng thời kỳ có sự thay đổi. Năm 1724, chúa Trịnh Cương lại ra lệ mới chỉ sau 3 năm thì lập lại sổ đinh để quản lý nhân khẩu. Đến năm 1730 hạn định này được kéo dài 12 năm một lần [ 103, tr.475]. Quản lý được số dân đinh vừa có thể ổn định được xã hội, mặt khác vừa đảm bảo được nguồn thu của nhà nước. Do vậy chính quyền Đàng Ngoài tìm cách hạn chế tối đa sự thất thoát dân đinh. Năm Phúc Thái thứ 5 (1646), chúa Trịnh ra một lệnh quy định:“ Người làng nào ngụ cư ở làng khác mà ruộng nương và ruộng nước, đất cát đều ở làng ngụ cư thì chịu dao dịch ở làng ấy. Nếu người nào tuy có làm nhà ngụ cư ở làng khác nhưng chỉ đến phụ canh thì chịu dao dịch ở nguyên quán” [47, tr.80]. Như vậy, các chúa Trịnh muốn gắn chặt người dân vào ruộng đất và sử dụng đơn vị làng xã như là một công cụ đắc lực để quản lý mọi thành viên trong xãhội. Triều đình cho phép xã trưởng trực tiếp quản lý dân cư ở địa phương mình và chịu trách nhiệm toàn bộ đối với nhà nước về số dân đinh trong địa hạt quản lý. Nếu như trong gia đình, nhà nước chỉ cần người chủ gia đình - người chồng - chịu trách nhiệm thì trong làng xã, chính quyền Đàng Ngoài chỉ cần thông qua xãtrưởng. Năm 1723, chúa Trịnh Cương đã có lệnh “cấm các xã trưởng ẩn lậu dân cư. Nếu ẩn lậu từ 11 suất đinh trở lên thì bị xử trảm; từ 6 đến 10 suất sẽ bị tội đày đi châu xa; còn từ 5 suất trở xuống thì bị tội đồ làm tượng binh” [37, tr.72]. Mặc dù chính quyền Đàng Ngoài muốn dùng pháp luật để thay thế cho các luật tục trong quá trình quản lý xãhội, nhưng thực tiễn cho thấy, rất khó khăn có thể thay thế và thay thế hoàn toàn được vì trên thực tế nhiều luật tục vẫn còn phát huy tác dụng. Do đó, các chúa Trịnh vẫn cho áp dụng như một biện pháp hữu hiệu. Bên cạnh lập sổ đinh, để dễ dàng cho việc quản lý nhân khẩu, các chúa Trịnh dùng biện pháp bắt mọi người chịu liên đới lẫn nhau. Từ đoàn kết giữa các thành viên trong mỗi làng xã đến liên kết các làng xã lại với nhau. Tháng riêng năm Bảo Thái thứ 4 (1723), chúa Trịnh Cương ban hành một quy định: “Nếu xảy ra trận cướp bóc thì xã sở tại phải bắt ngay, xã lân cận phải ứng viện, đều lấy mõ làm hiệu” [91, tr.92]. ở trong mỗi một làng xã, năm 1739, Triều đình đặt “phép đoàn kết” như sau: “Mỗi xã cứ 10 đinh lấy 7 suất, cho tự sắm vũ khí, đặt điếm canh giữ. Tùy theo địa phận tiếp nhau, hoặc 4, 5 xã hoặc 6. 7 xã kết làm một “đoàn”. Chọn một Thú dịch hoặc huyện lại làm Đoàn trưởng đốc suất. Khán thư các xãchỉ huy các đinh nam. Khi có việc thì tùy nghi đánh hoặc phòng ngự. Khi không đánh nổi thì báo cho “đoàn” khác tiếp ứng” [93, tr.48]. Với biện pháp này, các chúa Trịnh mong muốn sử dụng tính tự trị vốn có của làng xã để ổn định xã hội. Năm 1741, Trịnh Doanh còn quy định: “chiếu theo xuất đinh, cứ 3 lấy 1 làm hương binh. Xem xét chỗ hiểm mà đặt đồn để ngăn ngừa giặc giã” [96, tr.4]. Chính sách “đoàn kết” này không chỉ được áp dụng ở nông thôn mà còn được thực thi ở cả trong kinh thành Thăng Long. Thời kỳ Trịnh cương, "Kinh thành được chi thành 36 phường, mỗi phường đặt một Phường trưởng. Đặt phủ Phụng Thiên có Phủ doãn trông coi…Sau đó lại chia ra thành 8 “khu”. Mỗi khu đặt một Trưởng khu và một Phó khu; lại chia ra năm nhà làm một “ty”, cứ hai ty làm một “lư”; mỗi lư cũng có một Lư trưởng; bốn lư làm một “đoàn”. Mỗi đoàn đặt một Giám quan và 2 Quản điếm dưới quyền Khu trưởng và trực thuộc quan Đề lĩnh…Phàm những việc dao dịch thuế khóa…đều giao cho khu trưởng, trưởng đoàn thực hiện” [27, tr.23]. Năm 1748, Trịnh Doanh lại chia Kinh thành làm 36 khu, “ mỗi khu đặt một quan coi giữ việc tuần phòng, khám xét. Lại tổ chức Ty tộc đoàn để liên kết các gia tộc gần nhau cho tự vệ. Tiếp đó lại chia làm 9 “điện”, mỗi điện lập thành 4 khu, mỗi khu đặt một Chánh khu để quả lý” [91, tr.214]. Với những biện pháp đã đưa ra thực thi, các chúa Trịnh hy vọng sẽ kiểm soát chặt chẽ từng người dân, củng cố và ổn định được xãhội, giải quyết mọi vấn đề từ mầm mống phát sinh của sự bất ổn. Bên cạnh đó, nhà nước còn cho thực hiện các lệnh chỉ cấm đánh cờ bạc, chọi gà hay uống rượi ban hành vào các năm 1657, 1663, 1665, 1698, 1708, 1717, 1727, 1757. Ngoài ra, chính quyền Đàng Ngoài còn dùng “ân đức” đối với tù nhân bằng cách “sai người xem xét các nhà giam, sửa sang những chỗ ẩm ướt, chật chội, giúp đỡ kẻ thiếu đói, những tội nhẹ thì giảm án hoặc tha ngay” [93, tr.1]. Những biện pháp đó không phải là không mang lại kết quả cho sự ổn định xã hội. Phan Huy Chú đã ca ngợi thời Cảnh Trị (1663 - 1671): “cả nước được yên lành mà thịnh trị” [12, tr.57]. Những lời ca tụng này là có cơ sở. Ngay cả những lệnh chỉ cấm chơi cờ bạc, chọi gà đó cũng phản ánh một xãhội ổn định và phát triển. Người ta không thể phạm tội sa hoa khi đang lâm vào tình cảnh đói rách hay xiêu dạt. Thực tế cho thấy, từ giữa thế kỷ XVII đến những thập niên đầu thế kỷ XVIII, xã hội Đàng Ngoài khá ổn định và phát triển, chứng tỏ tính hiệu quả của một số chính sách xã hội mà các chúa Trịnh đưa ra thực thi. Tuy nhiên, sự ổn định đó chỉ có tính chất tạm thời, vì không phải vị chúa nào cũng có thể đưa ra các biện pháp hữu hiệu. Trên thực tiễn, nhiều chính sách tỏ ra bất cập, nhất là những chính sách được ban bố từ giữa thế kỷ XVIII. Ngay cả những chính sách trước đó đã từng mang lại kết quả nhưng về sau, khi triều đình dần đi vào khủng hoảng và suy yếu, bộ máy hành chính không còn đủ sức mạnh, trong khi đó xã hội Việt Nam có những thay đổi mạnh mẽ đã làm cho những chính sách đó trở nên không còn phù hợp trong tình hình mới. Chẳng hạn như “phép đoàn kết” được đặt ra đầu thế kỷ XVIII, sau một thời gian đã dẫn đến tình trạng: “Đảng dân tụ họp, cướp bóc ban ngày càng dữ…Triều đình buộc phải bãi bỏ lệnh chỉ đã ban hành và bắt dân nộp vũ khí” [91, tr.158]. Đến năm 1772, Trịnh Sâm ra lệnh: trừ các dân ở biên trấn, còn tất cả dân chúng đều bị cấm tàng trữ binh khí [103, tr.702]. Những biện pháp lợi dụng tính “tự trị” của làng xã đã tỏ ra phản tác dụng. Hơn nữa, cách thức nhằm nhanh chóng củng cố sức mạnh của chính quyền bằng biện pháp mua bán quan tước và thương mại hóa trường thi, từ đó hy vọng sẽ nhanh chóng ổn định trật tự kỷ cương xãhội thì ngay trong biện pháp đó đã chứa đựng mầm mống làm suy vi trật tự đang cần xây dựng. Ngay từ năm 1658, chúa Trịnh Tạc đã cho phép “ai nộp thóc thì được nhận chức tước” [42, tr.251]. Năm 1736, Trịnh Giang cho phép: “các quan trong triều từ lục phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc; dân gian ai nộp 2800 quan thì được nhận chức tri phủ, còn nộp 1800 quan thì được nhận chức tri huyện” [103, tr449]. Như vậy, có ít nhất các bậc quan tước từ cấp phủ trở xuống đến làng xãđã được thương mại hóa. Dường như các chúa Trịnh thời kỳ này có quan điểm như nhà nghiên cứu người Nga Antoshecheko nhận định: “Việc mua bán ở mọi lĩnh vực xã hội…sẽ đem lại một kết quả tiến bộ ở chỗ nhà nước, với chi phí thấp nhất, vẫn có được các nguồn tài chính đáng kể. Qua đó, Triều đình còn thu phục được lòng trung thành của các quan viên tận cấp làng xã” [3, tr.164]. Cho dù đây chỉ là một biện pháp đối phó với tình hình trong từng thời điểm khó khăn của chính quyền Đàng Ngoài vào thế kỷ XVIII, nhưng đó lại là biện pháp sai lầm được các chúa Trịnh sử dụng lặp lại nhiều lần vào các năm 1703, 1713, 1721, 1760. 1773, 1776. Hệ quả của nó đã được Phan Huy chú ghi lại: “...Hạng sinh đố ba quan đầy cả thiên hạ…Trường thi thành nơi mua bán…Người làm ruộng, người đi buôn cho chí người hàng thịt, người bán vặt cũng đều làm đơn xin thi cả…đó đâu có phải là điều lệ đời thịnh trị đâu!” [12, tr.19]. Tình hình trên chứng tỏ phương thức tuyển chọn người vào làm quan trong bộ máy chính quyền nhà nước thời Lê - Trịnh đã mang nhiều hạn chế, bất cập. Quan lại không những ngày càng yếu kém, ít năng lực, thiếu trách nhiệm mà tính sâu mọi, đục khoét lại càng tăng. Thực trạng này cũng phản ánh sự sa sút của chính quyền quân chủ Đàng Ngoài từ cuối thế kỷ XVIII - một chế độ hết sức đặc biệt trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, một chế độ quân chủ nhưng không tập trung quyền hành và không có được một cơ sở xã hội vững chắc làm nền tảng, hơn nữa, biện pháp này còn làm cho xãhội thêm khủng hoảng và khó tránh khỏi suy sụp. Như vậy, nếu như trong thế kỷ XVII, các chúa Trịnh đã cố gắng đưa ra những chính sách có thể quản lý, ổn định xã hội thì từ nửa sau thế kỷ XVIII, kỷ cương xã hội đã dần đi đến chỗ bất ổn. Các chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm đã cố gắng đưa ra một số biện pháp cứu vãn tình hình nhưng các chính sách đó chỉ mang tính tạm thời, thậm chí là sai lầm, làm cho Đàng Ngoài ngày trở nên khủng hoảng trầm trọng, dẫn đến tình trạng bất lực trong việc duy trì một xã hội ổn định vào cuối thế kỷ XVIII. 5.2. Giải quyết nạn dân phiêu tán Chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến và khởi nghĩa nông dân cũng như ách phú thuế, lao dịch nặng nề là những nguyên nhân chủ yếu đã đến tình trạng nông dân bỏ làng xã của mình. Thêm vào đó, với một nước nông nghiệp, kinh tế phụ thuộc lớn vào thiên nhiên, khi thiên tai lũ lụt, hạn hán xảy ra lại càng làm tăng tình trạng phiêu tàn ở trong nhân dân. Tình trạng thiên tai mất mùa, đói kém đã xẩy ra khá phổ biến từ cuối thế kỷ XVII. Các năm 1678, 1681, 1684, 1687, 1695… là những năm hạn lụt, mất mùa lớn. Sang thế kỷ XVIII, thiên tai càng xảy ra triền miên và trầm trọng hơn. Nam 1702, đê sông Mã, sông Chu ở Thanh Hóa bị vỡ, mùa màng mất sạch, nhân dân đói lớn. Sang năm 1703, nạn đói lan ra cả bốn nội trấn ở đồng bằng và khu vực kinh thành làm cho giá lúa cao vọt, một tiền chỉ đong được 4 bát thóc. Những năm 1712, 1713, một trận đói lớn lan tràn tràn khắp Đàng Ngoài, các đê sông lớn bị vỡ nhiều nơi, bấy giờ “nhân gian phải ăn vỏ cây, rau cỏ, thây chết đói đầy đường, thôn xóm tiêu điều…” [91, tr.67]. Năm 1726, 1727, nhân dân Thanh Nghệ bị đói lớn. Trận đói kéo dài đến năm 1728 và lan ra bốn trấn đồng bằng. Đặc biệt nghiêm trọng là nạn đói năm 1741, bắt đầu ở trấn Hải Dương rồi lan dần ra khắp cả Đàng Ngoài. Sử cũ chép: "Dân bỏ cả cày cấy, thóc lúa dành dụm trong xóm làng đều hết sạch, duy có Sơn Nam còn hơi khá. Dân lưu vong bồng bế dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, 100 đồng tiền không đổi được một bữa ăn. Dân phần nhiều sống nhờ rau cỏ, đến nỗi ăn cả chuột rắn. Người chết đói ngổn ngang, người sống sót không còn được một phần mười. Làng nào có tiếng là trù mật cũng chi còn độ 5, 3 hộ mà thôi. Riêng ở Sơn Nam, Nghệ An “hơi được mùa” nhưng họ Trịnh trưng mua vơ vét lúa gạo nên nhân dân cũng đói khổ. Thóc gạo khan hiếm đến nỗi có nơi một mẫu ruộng chỉ bán đủ mua một cái bánh nướng, có người tiền của đầy nhà cũng phải chết đói. ở vùng Hải Dương “ruộng đất đã hầu thành ra rừng rậm, những giống gấu chó, lợn lòi sinh tụ ra đồng. Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn” [91, tr.182]. Hàng vạn nông dân đã chết qua những nạn đói kéo dài và khủng khiếp ấy. Năm 1737, trấn Sơn Tây bị đói và dịch, số người sống sót chỉ còn lại 1, 2 phần 10. Riêng ở khu kinh thành, số người chết đói bị chôn vùi ở bên đường nhiều quá, Trịnh Giang phải sai lấy đất công lập hai khu mộ địa, một khu rộng hơn 17 mẫu ở xãDịch Vọng và một khu rộng hơn 14 mẫu ở xãHoàng Mai để chôn những người chết đói, chết dịch ở kinh thành. Những người sống sót qua các nạn đói, nạn dịch cũng không còn điều kiện sống, phải bỏ xóm làng đồng ruộng đi kiếm ăn khắp nơi. Số dân lưu vong đông đảo cứ tăng thêm sau mỗi trận đói mới. Năm 1730, có đến 527 hương bị phân tán gần hết. Vào khoảng thập niên 40 của thế kỷ XVIII, thì tình hình trở nên bi thảm: "Trước kia có 9668 làng tại đồng bằng Sông Hồng, 1079 làng trong số này đã đi khỏi, số làng này tương đương với số làng của một trấn. Tại Thanh Hóa, trước đây có 1392 làng, nhưng 297 làng trong số đó đã đi khỏi. Tại Nghệ An, trước đây có 706 làng, 115 làng trong số đó đã đi khỏi" [40, tr.39]. Ngăn chặn được nạn dân phiêu tán, Triều đình Lê - Trịnh không chỉ ổn định xãhội, giảm bớt chi phí tài lực cho việc đàn áp các cuộc nổi dậy mà còn đảm bảo được các nguồn thu thuế, từ đó củng cố và phát triển quốc gia. Do vậy, các chúa Trịnh đã hết sức quan tâm thực hiện các biện pháp hạn chế mức thấp nhất tình trạng phiêu tán diễn ra ở khắp các địa phương. Đối với người dân thì chỉ có an cư mới có thể lạc nghiệp. Điều kiện để ổn định cuộc sống của nông dân trong các làng xã không gì khác ngoài mức phú thuế thấp, không bị biến thành binh lính và tránh được chiến tranh, lao dịch làm hao hụt lao động. Chính quyến Đàng Ngoài đã nhận thức được những điều căn bản này trong việc điều hành đất nước. Hầu như ông vua nào lên ngôi cũng ban bố lệnh đại xá cho toàn dân. Ngay cả khi gặp tai biến, bên cạnh việc đổi niên hiệu (với sự mê tín rằng thần quyết sẽ giúp thay đổi tình hình), thì các vua đã cho xá một phần các loại thuế, lao dịch để có thể giảm nhẹ phần nào sự khốn khó của dân chúng. Bằng cách này, vua Lê - chúa Trịnh có thể xoa dịu nỗi thống khổ của nhân dân, đồng thời củng cố lòng trung thành của các thần dân đối với triều đình. Chẳng hạn, tháng 11 - 1600, vua Lê Kính Tông vừa lên ngôi thay cha là vua Lê Thế Tông, Triều đình ngay lập tức đại xá cho cả nước. Tháng 4 – 1629, bởi hạn hán, dân đói to nên vua Lê Thần Tông đã đổi niên hiệu Vĩnh Tộ thành Long Đức vì cho rằng những thiên tai đó là do trị vì không tốt nên “Trời giáng điềm gở để trách phạt”. Lê Thần Tông đã 7 lần thay đổi niên hiệu. Trong chỉ dụ đại xá năm 1600 quy định: “…Hạng tráng đinh, người nào không đi đánh dẹp, mỗi người phải nộp 3 quan tiền; hạng quân, mỗi người phải nộp 1 quan tiền; hạng dân, mỗi người phải nộp 1 quan 2 tiền 30 đồng; sinh đồ, ti lại, xã trưởng, lão hạng, tăng đạo, giáo phường nộp 1 quan. Hàng năm nhà nước thu 7 phần, lưu lại 3 phần để tỏ lòng khoan hồng. Đến nay đặc ân tha cho một nửa, chỉ thu năm phần mười” [103, tr.257]. Thời chúa Trịnh Tráng(1613 – 1652), để ổn định đời sống nhân dân, năm 1613, Triều đình đã “sai triều thần chia nhau đi các xứ xét nỗi đau khổ của dân gian. Người phiêu tàn thì tha tạp dịch 3 năm để an cư lạc nghiệp” [42, tr.216]. Ngay cả hàng binh của nhà Mạc, chúa Trịnh cũng thực hiện chính sách “chia con tháp cho các nơi, hàng năm cấp cho tiền bạc, vải đầy đủ” [91, tr.25] để họ có thể an cư, chống mầm nổi loạn. Dưới thời Trịnh Căn, những người lưu tán đều được miễn thuế và sai dịch. Tháng 4 - 1684 có lũ lụt lớn làm vỡ đê sông Hồng, chúa Trịnh đã “lệnh cho Thừa ty các xứ đi tuần trong bản hạt, thăm hỏi hiện trạng đau khổ của dân để cứu đói” [91, tr.27]. Nhìn chung, khi xảy ra thiên tai, địch họa, các chúa Trịnh đều cho người đi xem xét tình hình để đưa ra những quyết sách cụ thể như giảm tha phú thuế, lao dịch hay phát chẩn cứu đói. Chỉ tính từ năm 1600 đến năm 1788, tức là trong khoảng 188 năm, các chúa Trịnh đã thực hiện 52 lần giảm hoặc miễn thuế cho dân qua bản thống kê sau đây: Thời gian Địa điểm Những biện pháp đối phó Năm Tháng 1600 tháng 11 Có thủy tai lớn Đổi niên hiệu, đại xá 1608 Tháng 12 Đại hạn 1613 Tháng 11 Tha tạp dịch 3 năm cho dân phiêu tán 1616 Tháng 5 Đại hạn Tháng 8 Đại hạn Ngừng tuyển quân ở Thanh Hóa 1617 Tháng 7 Bão lớn ở Sơn Tây 1619 Tháng 6 Đổi niên hiệu, đại xá 1622 Tháng 8 Mưa lớn, lụt Kinh thành 1629 Tháng 4 Thanh Hóa và Nghệ An đại hạn Đổi niên hiệu, tha phú thuế cho Thanh Nghệ 1630 Tháng 6 Vỡ đê sông Hồng 1631 Tháng 2 Bồi đắp đê các xứ Tháng 8 Lũ thượng nguồn, Thang Long lụt 1632 Tháng6 Lụt lớn Chúa Trịnh đem quân đi hộ đê 1634 Tháng 7 Đại hạn 1635 Tháng 10 Đổi niên hiệu, đại xá 1643 Tháng 10 Đổi niên hiệu, đại xá 1645 Tháng 5 Xá một nửa thuế đinh cả nước 1657 Tháng 9 Lụt ở Thanh Hóa và Sơn Tây 1658 Tháng 2 Đổi niên hiệu, đại xá Tháng 5 Cho phép người nộp tiền, thóc được nhận quan chức, lấy tiền cứu đói 1662 Tháng 8 Lụt Đại xá Tháng 11 Đổi niên hiệu, đại xá 1663 Tháng 6 Lụt vùng Khoái Châu, Thường Tín Tháng 11 Giảm thuế đinh cho Tứ trấn 1666 Tháng 6 Lụt vùng Thanh Hóa 1670 Tháng 5 Hạn 1671 Tháng 11 Đổi niên hiệu, đại xá 1674 Tháng 10 Đổi niên hiệu, đại xá Tháng 12 Hạn hán 1675 Tháng 6 Đổi niên hiệu Tháng 12 Đại hạn 1679 Tháng 10 Thanh Hóa đói to Xá thuế đinh và thuế tuần ty, giảm bớt cúng tế 1680 Tháng 10 Đổi niên hiệu, ân xá 1681 Tháng 2 Đại hạn 1684 Tháng 8 Vỡ đê sông Hồng, mất mùa vùng Tây Bắc 1687 Tháng 10 Hạn Bàn việc ân xá, sai quan quân làm xe tát nước chống hạn 1690 Tháng 5 Vỡ đê ở Sơn Nam Giảm thuế 1691 Tháng 8 Sai quan đi chiêu mộ dân xiêu dạt ở Hưng Hóa và Tuyên Quang 1694 Tháng 7 Hải Dương và Sơn Nam bị đói Tha tô thuế, lao dịch 1695 Tháng 1 Lụt vùng Thanh Hóa Trích 1 vạn quan tiền phát chẩn Tháng 6 Hạn Giảm nhẹ tô thuê, hoãn việc tu sửa đền đài 1702 Tháng 1 Vỡ đê vùng Thanh Hóa Trích 2 vạn quan tiền phát chẩn, miễn thuế đinh và thuế hộ 1703 Tháng 1 Đại hạn Trích tiền nội trấn cứu đói, xá thuế dung cho Thanh Hóa, lệnh cho nhà giàu phải bán thóc theo giá nhà nước: 1 tiền 4 bát 1705 Tháng 4 Đổi niên hiệu, đại xá 1707 Tháng 7 Xá thuế dao dịch cho dân phiêu tán trong 5 năm, người trở về nguyên quán thì miễn thuế hộ 3 năm 1709 Tháng 9 giảm 1/2 thuế tô và tha thuế thiếu cho những năm trước 1711 Tháng 1 Sai quan đốc thúc việc đê điều 1712 Tháng 6 Đói to Giảm 1/2 thuế tuần ty và bến đò; tha tù nhân tội nhẹ; hoãn thu thuế thiếu; đình phu làm việc 1713 Tháng 1 Đại hạn Trích 1 vạn quan tiền phát chẩn; Xá tô thuế; cho phép người nộp thóc tiền được nhận chức quan Tháng 7 Lụt lớn vùng Sơn Tây, Sơn Nam và Thanh Hóa Thu tiền theo suất đinh để thuê phu sửa đê 1720 Tháng 6 Đổi niên hiệu, ân xá 3/10 thuế vụ hạ 1721 Tháng 5 Hạn Lệnh cho người nộp tiền thóc phát chẩn cứu đói 1722 Tháng 9 Được mùa lớn Miến tô cho ruộng tư; cấp ruộng khẩu phần cho lính Tứ trấn 1724 Tháng 2, 4 Đại hạn Giảm 1/2 tô thuế cho Thanh Hóa và Nghệ An Tháng 11,12 Hạn Đình việc xây dựng; tha thuế thiếu cho các xứ 1725 Tháng 5 Mất mùa vùng Hải Dương Xá thuế còn thiếu 1726 Tháng 2, 10 Nghệ An bị đói Lấy thóc kho Vĩnh Khê phát chẩn; giảm thuế cho trấn cao Bằng Tháng 11 Thanh Hóa đói Trích 14 vạn quan tiền phát chẩn cứu đói 1727 Tháng 2, 3 Lụt vùng Sơn Nam Tha thuế thiếu đọng; giảm tô thuế cho Sơn Nam 1728 Tháng 3, 4 Lụt cả nước Trích 6 vạn quan tiền phát chẩn Tháng 6, 10 Thanh Hóa, Nghệ An đại hạn Xá tiền thuế điệu 1729 Tháng 4, 7 Vỡ đê sông Hồng Đổi niên hiệu, ân xá; Mở kho thóc Vị Hoàng cấp chẩn; sai quan khuyến nông chiêu dụ dân lưu tán 1730 Tháng 2, 4 Vỡ đê mạn Trú vùng Sơn Nam Xá 3/10 thuế vụ hạ và 2/10 thuế vụ chính 1732 Tháng 8 Đổi niên hiệu, đại xá 1735 Tháng 4 Đổi niên hiệu, đại xá Tháng 6 Đại dịch Cho nộp tiền nhận quan chức, lấy tiền phát chẩn 1741 Tháng 1 Đong 200 vạn bát thóc ở Sơn Nam và Thanh Nghệ với giá: 1 quan 50 bát Tháng 3, 4 Đói vùng Hải Dương Trích 1 vạn bát gạo phát chẩn Tháng 7 Cho binh lính lập đồn điền Tháng 8 Khuyến dân nộp thóc nhận cức quan, lấy cứu đói; hoãn thi 1724 Tháng 1, 7 Vùng Thanh Hóa đói to Đem 15 vạn bát thóc phát chẩn; giảm bớt tế lễ; đình hoãn kiện tụng Tháng 12 Thu thêm tiền tô; tăng tiên tô ruộng tư 1743 Tháng 8 Xá thuế cho huyện Thụy Anh; Sai lập đồn thú để chiêu dân phiêu tán 1748 Tháng 2, 3 Cho nộp tiền nhận chức tước Tháng 9 Lụt lớn vùng Thanh Hóa và Nghệ An Hoãn tô thuế 1749 Tháng 3 Vỡ đê Bắt phu đắp đê; Miễn thuế thiếu đọng cho Kinh kỳ 1752 Sơn Tây dân phiêu tán nhiều 1753 Tháng 3, 6 Hạn hán Cho lính lập đồn điền Tháng 4 Mưa đá ở Yên Sơn và Thạch Thất Giảm tô thuế Tháng 7 Dân phiêu tán ở vùng Thái Nguyên Tháng 10 Bão lớn, 3 xứ Đồn, Nam, Bắc đói to Miễn thuế gia tô; miến các thứ thuế cho đồn điền của binh lính 1754 Tháng 4, 6 Vỡ đê Bộ Đầu và Võng Xuyên Xuất 300 lạng bạc phát chẩn; cho quan Hiến sát ty đi hộ đê. 1755 Tháng 4 Hạn hán Hoãn thu thuế tồn đọng ở Bình Đông, Bình Tây; giảm tô thuế ruộng tư cho Nghệ An và Tứ Trấn 1756 Tháng 10, 12 Lụt ở Nghệ An 1757 Tháng 3, 7 Thủy tai lớn, vùng Sơn Tây đói to, dân cư 10 phần chết 8, 9 phần Tháng 12 Lũ lớn ở Thái Nguyên 1758 Tháng 8 Đại hạn Miến thuế gia tô và tiền chuộc tội còn thiếu đọng; triệt bỏ sở tuần ty 1759 Tháng 2 Vùng Thanh Hóa và Nghệ An đói to Sai quan mộ nhà giao nộp tiền và lấy tiền thông kinh phát chẩn; những người phiêu tán đến Tứ trấn đều cho người đến phát chẩn Tháng 6 Đại hạn Bắt dân làm xe tát nước cứu hạn; phát chẩn thóc giống; đình hạn việc kiện tụng 1760 Tháng 9 Lụt vùng Thanh Hóa Cho dân nộp thóc nhận quan chức; hoãn việc nã bắt; tổ chức cứu đói 1761 Tháng 6, 7 Hạn hán Tha thuế cho những xã thiếu thuế và điêu tàn 1762 Tháng 4, 6 Dịch bệnh Hoãn thu thuế điệu, dung; tha lực dịch cho Thanh Hóa 1763 Tháng 1 Tha thuế cho 6 huyện ở Trường Yên và Thanh Hóa 1764 Tháng 6 Hạn hán Cầu đảo Tháng 12 Giảm một nửa thuế gia tô 1765 Tháng 3 Đại hạn Cầu đảo 1766 Tháng 6, 9 Vỡ đê Kinh Bắc Lệnh cho quan quân đi hộ đê, đình hoãn kiện tụng; bãi việc cấp ruộng cho Tứ trấn; tổ chức phát chẩn 1767 Tháng 4 Lụt Ân xá Tháng 6 Đại hạn Miễn thuế thiếu từ năm 1759 trở về trước; miễn thuế chính tô và gia tô 1768 Tháng 5 Hạn, đói to ở Thanh Nghệ và Tứ trấn Lệnh cho dân nộp thóc nhận chức tước để lấy phất chẩn; bỏ thuế tuần ty; cấp ruộng hoang ở Hương Sơn cho dân phiêu tán 1769 Tháng 2, 5 Vỡ đê ở Thanh Hóa Miễn thuế gia tô cho Hưng Hóa 1773 Tháng 4 Hạn hán Miễn thuế gia tô; đình hoãn kiện tụng Tháng 7, 8 Vỡ đê vùng Thường Tín Cho dân nộp thóc để lấy phát chẩn và đắp đê; miễn một nửa thuế gia tô 1774 Tháng 2, 3 Nghệ An đói to Tổ chức phát chẩn; tha thuế tuần ty; hoãn bắt lính và kiện tụng Tháng 8 Đắp đê vùng Sơn Nam và mộ dân về cầy cấy 1776 Tháng 1 Xá tô cho ruộng ven biển ở Hải Dương, Quảng Yên và Sơn Nam Tháng 3 Đói to Mộ dân khai khẩn ruộng hoang 1777 Tháng4 Nghệ An đói to Trích 15 vạn quan tiền và 15 vạn bát gạo phát chẩn; tha thuế điệu cho Tứ trấn 1778 Tháng 4, 6 Đại hạn, Thanh hóa và Nghệ An đói to Dựng quán tế sinh nấu cháo phát chẩn; cấm đóng cửa bán gạo 1786 Tháng 3 Đói to ở Kinh kỳ và Tứ trấn Bức nhà giàu nộp tiền để phát chẩn 1787 Tháng 3 Đại hạn Cầu đảo 1788 Tháng 3 Hạn hán Ngoài những hoạt động cứu tế xã hội, Triều đình Lê - Trịnh còn quan tâm đến phát triển sản xuất như cho quan khuyến nông đi xem xét ruộng nương, khám xét đê điều, đốc thúc việc phòng chống hạn hán cũng như lũ lụt….Tất cả những biện pháp này không ngoài mục đích mưu cầu nhân sinh quốc kế. Đặc biệt, chúa Trịnh Cương không những cho thực hiện những biện pháp cụ thể để ổn định tạm thời dân lưu tán mà còn có chính sách nhằm tạo điều kiện cho những người buộc phải bỏ làng ra đi có một cuộc sống yên ổn lâu dài. Tháng 3 - 1725, trước tình trạng dân lưu tán diễn ra nhiều nơi và nhiều năm, Trịnh Cương đã cho ban hành một quyết định: “…phàm những người dân xã nào tan tác xiêu dạt, đồng điền bỏ hoang, tiền thuế tô, dung, điệu đọng thiếu chồng chất nhiều kỳ thì cho tha hẳn. Còn đồng ruộng của họ nếu người dân nào ở lân cận tình nguyện cày cấy thì quan thu nên tạm giao cho họ trồng trọt, khai vào sổ, từ 3 năm sau khi khai khẩn sẽ bắt đầu thu thuế bằng tiền, ruộng tư được giảm một nửa. Đợi khi dân xiêu dạt đã hồi phục thì cho xãtrưởng, chức sắc, kỳ mục làm sổ nộp lên quan huyện, sẽ chiếu sổ bổ thuế dung; còn tiền điệu thì tha cho 3 năm. Dân xã nào xiêu tán, đồng ruộng đã bán cả cho người khác mà dung, điệu hàng năm còn chồng chất thiếu đọng thì tha cho số nợ thiếu, còn tô ruộng công thì cứ thu của người hiện đang cày cấy ruộng đó. Ruộng tư thì tiền như đã định. Về quan điền, cho phép quan coi thu theo lệ thuế đã định, tính suất đi, liệu lượng lấy thóc và tiền. Đợi khi dân đã đông đúc rồi sẽ giao bổ theo lệ ngạch. Tiền điệu cũng rộng tha cho 3 năm. Phàm dân xãnào mà đồng chua nước mặn, ruộng đất xấu, dân phải xiêu dạt, tô thuế thiếu nhiều thì quan bản tĩnh phải khám xét, nếu quả đúng thực thì tha cho số thuế thiếu lâu năm. Chiếu thu thiền tô, cho kế tiếp nộp dần dần, sau 3 năm, sẽ liệu bổ thuế thóc. Ruộng tư thì tiền tô giảm xuống một nửa” [37, tr.93]. Trước đó, năm 1711, chúa Trịnh Cương đã ban hành lệnh chỉ cấm quan viên không được lập trang trại để lấn chiếm ruộng đất, dẫn đến tình trạng dân mất đất mà lưu tán: “… những nhà quyền thế phần nhiều nhận ruộng đất của mình ở đâu đều sẽ lập trang trại ở đấy, rồi chiêu tập trốn tránh, cho họ nấp bóng để vơ vét mối lợi vì thế mà nhiều người phải phiêu tán…Đến nay cấm việc đó. Còn những người phiêu lưu trú ngụ ở xã khác, khai khẩu nhờ vào đất hoang xãấy, hiện đã thành cơ nghiệp thì đất đó cho làm thổ canh để được yên nghiệp” [103, tr.399]. Với chính sách này, chúa Trịnh đã biến dân phiêu tán trở lại thành dân chính cư, cho dù họ bỏ làng cũ đến bất cứ địa phương nào. Đồng thời hạn chế sự phân biệt giữa các hạng dân trong các làng xã, tạo điều kiện cho dân ngụ cư nhanh chóng ổn định cuộc sống. Năm 1730, chúa Trịnh Giang sai người đi chiêu tập dân lưu tán với quy định: "…làng nào dân lưu tán về đúng kỳ hạn, đông đủ sẽ được hậu thưởng; làng nào đã hết kỳ hạn mà dân lưu tán chưa về yên nghiệp làm ăn sẽ bị phạt nặng" [103, tr.477]. Việc chiêu tập dân phiêu tán nhằm ổn định xã hội, đảm bảo quyền thu thuế và sưu dịch cho nhà nước, đồng thời góp phần ổn định và phát triển sản xuất. Chúa Trịnh Doanh còn cho chiêu tập dân phiêu tán để khai hoang lập làng mới. Tháng 11- 1752, “Chúa sai quan làm Chiêu phủ sứ, chia nhau đi các đạo khuyến khích dân cày ruộng, chiêu dụ dân phiêu tấn làm ruộng, khẩn hoang, đặt đồn lũy”. Kết quả là năm đó, “Tham tụng Nguyễn Quý Kính chiêu phủ lưu dân Tứ trấn được hơn 3000 xã. Trong đó có những xãquá nghèo phiêu tán hết là 1730 xã, còn xã chưa đến nỗi lắm là 1961 xã” [96, tr.13]. Năm 1754, sau khi xảy ra lụt lớn, Trịnh Doanh đã đặt lại chức quan khuyến nông mà trước đó triều đình đã bỏ chức này, trực tiếp đến các địa phương với nhiệm vụ: “…chia nhau đốc thúc người dân cày cấy ruộng hoang. Dân phiêu tán trở về, đem ruộng đất ấy trả lại cho dân cũ. Cho quan đại thần trực tiếp giữ chức khuyến nông, chia nhau đi đốc xuất, định lại mốc điền thổ, xét sự kiện tụng, bình quân mua bán…Những người đầu hàng cũng chuẩn cấp cho về quê quán, trả lại điền sản, miễn tô thuế thiếu từ năm 1742” [103, tr.625]. Biện pháp này cũng được chúa Trịnh Sâm áp dụng. Tháng 7 - 1767, Trịnh Sâm "lệnh cho các phủ điêu tàn nghèo đói, sai Hiến sát các xứ đi khám xét ruộng bị bỏ hoang, kiện tụng, dò hỏi oan khuất. Mặt khác, tha tô cho những nơi bị thiệt hại từ bốn phần trở nên. Những thuế bổ thiếu từ năm Kỷ mão(1759) trở về trước đều được tha cả” [103, tr.73]. Tháng 6 - 1768, sau khi đánh bại cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật, Trịnh Sâm lệnh "cho phép đem ruộng bỏ hoang ở Hương Sơn cấp cho dân Cao Châu bị phiêu tán cầy cấy để an nghiệp" [103, tr.681]. Không những thế, Trịnh Sâm còn cấp nông cụ và tiền cho dân phiêu tán. Tháng 3 - 1776, Chúa cho “mộ dân khai ruộng hoang, mỗi người được nhận 5 mẫu ruộng, nhà nước cấp cho ngưu canh, điền khí và 15 quan tiền” [103, tr.29]. Tháng 3 - 1777, Trịnh Sâm sai các trấn phát tiền công chia cho lính thóc giống để khai khẩn ruộng hoang. Phát tiền 68000 quan tiền, mỗi năm thu 83 vạn hộc thóc chứa vào kho Vị Hoàng [91, tr.429]. Để giảm bớt chi phí cho triều đình, các chúa Trịnh còn cho hạn chế số quan lại ở hiến ty một số nơi. Năm 1742, Trịnh Doanh đã ra lệnh "bỏ bớt cả ty Hiến sát ở các xứ Tuyên Quang, Hưng Hóa và Yên Quảng vì dân cư phiêu tán, xơ xác" [103, tr.557]. Ngoài ra, để tăng cường nguồn lao động, đảm bảo sản xuất, chúa Trịnh Sâm còn cho bãi binh Tứ trấn về làm ruộng vào năm 1770 [101; 692]. Năm 1740, ngay sau khi thay anh mình là Trịnh Giang, chúa Trịnh Doanh quyết định ngừng các công việc xây dựng chùa quán để giảm lao dịch cho dân. Triều đình còn ngăn cấm quan lại sách nhiễu của quan lại bằng cách cấp tiền cho họ khi kinh lý về các địa phương. Năm 1751, chúa Trịnh Doanh quy định: mệnh quan triều đình khi đi kinh lý các nơi chỉ được mang 300 quan tiền hành lý và chỉ được chi dùng trong số tiền ấy, không được phép thu thêm tiền của dân [103, tr.612]. Với những chính sách tích cực kể trên, các chúa Trịnh đã làm cho Đàng Ngoài có một vài thập kỷ ổn định. Những tài liệu còn ghi lại cho thấy dưới thời Lê Cảnh Hưng đã có nhiều năm được mùa, tình hình xãhội khá ổn định. Theo ghi chép của Phạm Đình Hổ thì “khoảng năm Giáp ngọ đời Cảnh Hưng, mấy năm được mùa liền, các cửa hàng hoá, vật giá rất rẻ, một đồng kẽm hai cái kẹo đường, mà hai bát nước chè tươi, hai miếng trầu cau cũng chỉ có một đồng kẽm…Ai vào ăn cơm, tuỳ thích ăn no hết sức, chỉ mất độ mười đồng kẽm mà thôi” [27, tr.83]. Như vậy, tùy từng thời điểm, từng địa phương mà chính quyền Đàng Ngoài đã cho thực hiện những chính sách cụ thể nhằm giải quyết nạn dân phiêu tán. Đó đều là những biện pháp hữu ích, góp phần ổn định tình hình chính trị - xãhội lúc bấy giờ. Rõ ràng, “trong hoàn cảnh xãhội hỗn loạn như ở thế kỷ XVIII, nếu triều đình Lê - Trịnh không có thêm những biện pháp kinh tế - xãhội, cứu tế an dân mà chỉ chú trọng tới việc đàn áp phong trào khởi nghĩa thì tình hình chắc hẳn sẽ phải khác, chính quyền thống trị chưa chắc đã duy trì được như trên thực tế” [88, tr.42]. Chính quyền Đàng Ngoài đã cho thực hiện một số chính sách tương đối hợp lý để chiêu an những dân phiêu tán. Mặc dù vậy, đây chỉ là những biện pháp mang tính đối phó, tức thời, có tác dụng làm dịu đi những cuộc nổi dậy của nông dân chứ không thể nào giải quyết tận gốc vấn đề. Thực tế cho thấy, sau một thời gian được giảm xá, nhân dân lại phải chịu phú thuế lao dịch nặng nề như cũ; lao động thì phần lớn biến thành binh lính cho các cuộc chiến tranh và đàn áp khởi nghĩa nông dân, khiến cho nạn phiêu tán lại diễn ra, nhất là khi gặp những thiên tai lớn. VI. Những chính sách xã hội của các chúa Trịnh đối với ngoại kiều 6.1. Chính sách đối với ngoại kiều phương Tây Như đã trình bày trong chương một, từ thế kỷ XVI, khi nhiều nước phương Tây đến Đàng Ngoài xin được đặt quan hệ ngoại giao thì cũng như các nước phương Đông khác, quốc gia Đại Việt phải đối diện với một làn sóng văn minh mới. Cho phép thông thương và truyền đạo đồng nghĩa với việc chính quyền Đàng Ngoài thừa nhận cho một cộng đồng người Âu sinh sống trên đất nước của mình vì các thương điếm sẽ là nơi cư trú lâu dài và ổn định của ngoại kiều. Thương điếm của Hà Lan được lập ở phố Hiến từ năm 1637 đến năm 1700 và ở Kẻ chợ từ năm 1644 đến năm 1700. Mặc dù thời gian hoạt động ngắn hơn so với người Hà Lan nhưng thương điếm của người Anh cũng tồn tại suốt 25 năm (1672 - 1697). Năm 1680, Công ty Đông ấn của Pháp cũng được phép lập thương điếm và hoạt động thương mại liên tục trong 5 năm (1681 - 1686). Bên cạnh đó thì công việc truyền giáo mà các giáo sĩ phương Tây lại càng muốn cư trú lâu dài và hoà nhập sâu hơn vào đời sống của người dân Việt. Kết quả là đã hình thành một cộng đồng người ngoại kiều phương Tây ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII. Trong quá trình cộng cư đó, lẽ tự nhiên sẽ diễn ra các mối quan hệ xãhội giữa người Việt với người phương Tây. Để ổn định và phát triển xãhội, đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách phù hợp cho ngoại kiều của từng nước cũng như trong từng hoàn cảnh, từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Trên thực tế, chính quyền Lê - Trịnh đã cố gắng đưa ra nhiều giải pháp xãhội đối với ngoại kiều châu Âu. Các chính sách này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ giao thương và các mối quan hệ khác giữa Đại Việt với phương Tây trong thời kỳ này. Trong thế kỷ XVII thì quan hệ giữa chính quyền Lê - Trịnh với phương Tây nhìn chung là rất hoà hảo. Điều đó được thể hiện ở ngay cách tiếp đón rất nồng hậu của các chúa Trịnh. Chính những người châu Âu đã công nhận rằng: “khi đến xứ này thì lần nào trở lại họ cũng được chúa đón chào, lần sau trọng thị hơn lần trước” [32, tr.26]. Ngày 24 - 7 - 1641, chúa Trịnh Tráng gửi cho phó Toàn quyền Hà Lan ở Đài Loan trong thư thể hiện rõ sự tin cậy và quý mến đối với người phương Tây: “Tôi thấy ông ta (thuyền trưởng Hartsinde) tâm địa ngay thẳng, tôi coi ông ta như bàn tay phải của tôi và thắng lợi to nhất là người Hà Lan được tự do buôn bán ở Đàng Ngoài” [86, tr.134]. Trước đó, năm 1627 chúa Trịnh Tạc đã kết bạn đồng tuế với giáo sĩ Alexander de Rhodes [5, tr.231]. Đa số các chúa Trịnh đều tỏ ra có thiện tình với người phương Tây. Chẳng hạn như Trịnh Doanh (1720 - 1767), mặc dù là vị chúa đã ra nhiều lệnh cấm cư trú đối với người phương Tây nhưng cũng có lúc bảo vệ họ. Năm 1748, Trịnh Doanh đã từng ra lệnh: “… Ai dám nói xấu người châu Âu nữa sẽ bị cắt lưỡi” [34, tr.532]. Nhận thức rõ là số lượng ngoại kiều châu Âu cư trú ở Đàng Ngoài, dù ít, nhưng đây là một cộng đồng người cần phải quan tâm nhất. Do vậy, để dễ dàng cho việc quản lý, các chúa Trịnh đã có những chính sách cụ thể đối với họ. Năm Khánh Đức thứ hai (1658) chúa Trịnh Tạc đã ra quy định cho phép: “Các tàu Hoà Lang (Pháp), Bố Đào Nha, Italia, Anh, Ô lan (Hà Lan) khi đến nơi sẽ được phép trú ngụ ở những làng Thanh Trì và Khuyến Lương, được canh gác và được một người thông sự cùng quốc tịch để phiên dịch và giúp đỡ hiểu biết thể lệ…” [103, tr.188]. Từ châu Âu sang, người phương Tây luôn mong muốn có một môi trường thuận tiện và yên ổn cho những hoạt động của họ ở Đại Việt. Để làm được điều đó, họ luôn tìm mọi cách để lấy thiện cảm các vua chúa cũng như các quan lại và dân chúng bằng cách dùng nhiều quà biếu hay đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của các chúa Trịnh đưa ra. Đồng thời, ngoại kiều phương Tây rất khéo dùng chiêu bài tìm cha mẹ nuôi có thế lực để tránh sự nhũng nhiễu của giới quan lại quản lý ở địa phương. Không dừng lại đây, họ còn lấy vợ Việt. Người châu Âu lợi dụng việc lấy vợ Việt để gây cơ sở. Những người vợ này không những là người tin cậy có thể giao phó cơ nghiệp trong lúc họ vượt biển mà còn giúp họ tiếp tục thực hiện công việc kinh doanh mua bán trong khi họ không có mặt. Những trò vui tạp kỹ Xứ Đàng Ngoài (nguồn Sa. Baron. 1683) Trong khi đó, người dân Việt cũng rất dễ tiếp nhận người phương Tây. Willam Dampier đã viết trong chuyến du hành của mình đến Đàng Ngoài năm 1688: “đàn bà không ngại nếu họ có mang với người da trắng. Ngay cả người quyền quý ở xứ Đàng Ngoài cũng đem hiến con gái cho các thương nhân và đám sĩ quan” [105, tr.70]. Đặc biệt chúa Trịnh Căn đã nhận một người con lai, bố là người Hà Lan và mẹ là người Việt làm con nuôi của mình tên là Samuel Baron(*). Những điều kiện thuận lợi mà các chúa Trịnh đã dành cho ngoại kiều làm cho người phương Tây hoà nhập rất nhanh vào cộng đồng người Việt. Hơn nữa, người dân Đại Việt cũng tỏ ra không có sự nghi kỵ người phương Tây. Chính những người phương Tây đã khẳng định rằng, khi đến Đàng Ngoài họ đã nhận được nơi đây những tình cảm bằng hữu thân thiết và “cảm thấy tự do y như sống ở nhà riêng của họ vậy” [105, tr.105]. Hệ quả của sự giao lưu đó là: “họ sống lẫn lộn từ lâu với người bản quốc và dần dần đi tới chỗ khinh thường phép nước, vượt bỏ cấm đoán” [47, tr.341]. Bởi đây không đơn thuần là sự tiếp xúc giữa hai cộng đồng người với nhau mà hơn thế là sự tiếp xúc giữa hai nền văn minh khác nhau. Người châu Âu đến cư trú đã mang theo cả những giá trị văn hoá phương Tây với nhiều nét khu biệt so với văn minh Đại Việt và trên thực tế đã tạo ra những biến đổi xãhội không nhỏ. Đây là mối lo ngại cho triều đình Lê - Trịnh vì kẻ cầm quyền lại rất mong muốn duy trì một xãhội ổn định trong một trật tự phong kiến. Giải quyết mối lo ngại này, các chúa Trịnh hoặc là “Việt hoá” người Âu, bắt ngoại kiều sống theo tập tục của người Việt, hoặc là biệt lập họ khỏi cộng đồng người Việt. Có những vị chúa thì chỉ thực hiện một trong hai giải pháp, nhưng đa số các chúa Trịnh đã đồng thời thực hiện song song cả hai sự lựa chọn. Trước hết là “Việt hoá” người phương Tây bằng cách bắt ngoại kiều tuân theo phong tục, tập quán của người Việt. Vào tháng 8 - 1663, chúa Trịnh Tạc đã ra một lệnh chỉ: “Cho phép các Thừa ty ra lệnh cho tất cả các quan huyện, tránh tổng, lý trưởng, trưởng thôn, trưởng xóm phải lập một bản kê khai chi tiết số người nước ngoài ngụ cư ở địa phương mình, khi nào có thì ghi thêm. Số những người nào mà đã có vợ con phải đăng ký vào sổ hộ tịch” [47, tr.127]. Trước đó, năm Khánh Đức thứ hai (1650), chúa Trịnh Tráng đã đưa ra những quy định về các lễ nghi mà người Âu phải tuân theo: “Trong khi đi đường, chỉ người trưởng đoàn được cưỡi ngựa. Đến trước cổng các dinh thị lớn và trước cửa đình thì phải xuống ngựa…” [47, tr.177]. Cuối thế kỷ XVII, trong thời gian cầm quyền của mình, ngày 17 - 7 - 1696 Trịnh Cương lại ra những quy chế cụ thể từ cách ăn mặc, lối sống cho những người phương Tây: “Phàm các xãdân ở giáp địa giới với người ngoại quốc, từ ngôn ngữ đến ăn mặc và cư xử đều nên tuân theo dáng vẻ, lề lối và phong tục nước ta, cấm không được bắt chước người ngoại quốc” [42, tr.65]. Đến tháng 12 - 1717, Trịnh Cương ban hành một lệnh chỉ: “định rõ chế độ khu xử với người ngoại quốc, cho phép ở đâu thì nhập tịch và chịu tạp dịch ở đó. Phải đóng góp mọi việc cho nhà nước. Từ tiếng nói, ăn mặc đến đầu tóc đều phải nhất nhất tuân theo phong tục Đại Việt” [91, tr.72]. Đáng chú ý, chính quyền Đàng Ngoài còn đảm bảo cho ngoại kiều người Âu có những quyền hạn nhất định của mình như: có quyền tự do đi lại, buôn bán, có thể kết hôn với người bản xứ…, hơn nữa còn có cả quyền sở hữu đất đai ở những thương điếm của họ. Điều này được minh chứng qua sự kiện vào tháng 8 - 1697 khi thương nhân Anh được phép đến Kẻ Chợ thì họ có quyền thuê nhà của một người phụ nữ Bồ Đào Nha tên là Monica Đabada để thông thương [104, tr.172]. Nếu có xảy ra va chạm hay tranh chấp giữa người châu Âu với người Việt, trong những trường hợp đó, các chúa Trịnh rất công bằng với người phương Tây. Đã có lệnh chỉ rõ ràng: “ Những ngoại kiều bị kết tội gây rối đối với người dân vô tội thì sẽ bị phạt và đền bù. Làm một người chết phải đền 100 000 đồng cash…Người phương Tây sẽ được phép kháng cự lại bất cứ ai chống phá hoặc làm hại bản thân” [105, tr.105]. Có một sự kiện được chính người châu Âu ghi lại thể hiện tính công bằng trong việc đối xử với ngoại kiều của các chúa Trịnh: “Viên quan coi tàu của Đàng Ngoài mà những người Anh gọi là On Ta Bia(?) mua hàng của người Anh định không trả tiền nhưng bị chúa Trịnh Sâm buộc phải trả và hạn trong 15 ngày nếu không trả được sẽ ra lệnh bán nhà và của cải để trả cho người Anh đó” [104, tr.174]. Có thể nói, trong suốt hai thế kỷ, các chúa Trịnh đã cố gắng bằng mọi biện pháp nhằm “Việt hoá” người châu Âu, biến họ trở thành thần dân của mình hoặc chí ít cũng bắt họ tuân thủ theo những phong tục tập quán của người Việt ở những nơi mà họ cư trú. Những chính sách mà các chúa Trịnh cho thực thi đó đều nhằm múc đích tạo điều kiện thuận lợi cho người phương Tây cư trú và hoạt động ở Đàng Ngoài. Kết quả của nó là làm cho mối quan hệ giữa hai cộng đồng người Việt và người Âu ngày càng có những ảnh hưởng mạnh mẽ lẫn nhau. Không phải chỉ người Âu theo phong tục người Việt mà ngược lại, người Việt cũng tiếp thu những tập tục mới lạ của người châu Âu, từ phong tục đến khoa học kỹ thuật…, đặc biệt là tôn giáo. Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, từ năm 1533 đến năm 1659, “ ở Đàng Ngoài đã có tới 331 nhà thờ, riêng Sơn Nam là 183” [86. tr.238]. Đến thế kỷ XVIII thì đã có hàng chục vạn tín đồ người Việt theo Thiên Chúa giáo. Ngay cả mẹ của chúa Trịnh Tạc và công chúa Mai Hoa cũng theo đạo Thiên Chúa [8, tr.40]. Quá trình cộng cư lâu dài giữa người Việt và người Âu và sự tiếp thu văn hoá phương Tây của người Việt đã tạo ra những biến đổi không nhỏ trong xãhội Đàng Ngoài, nhất là những trung tâm đô thị và thương cảng - nơi năng động nhất của xãhội Việt Nam thời bấy giờ. Thực tế đó khiến các chúa Trịnh nhận thấy rằng, ngoài những hàng hoá và vũ khí mà triều đình cần thì những gì phương Tây mang đến sẽ huỷ hoại thuần phong mỹ tục của người Việt. Các chúa Trịnh cho rằng, “những trường giảng đạo, người ở lẫn tạp, trai gái không phân biệt” [42, tr.265] và “người châu Âu họ sống lẫn lộn từ lâu với người bản quốc và dần dần đi tới chỗ khinh thường phép nước, vượt bỏ cấm đoán” [42, tr.341]. Những biện pháp nhằm “Việt hoá” người Âu tỏ ra không hiệu quả, nhất là vào cuối thế kỷ VXIII khi các hoạt động thương nghiệp đã sa sút, ở Đàng Ngoài chủ yếu chỉ còn các giáo sĩ truyền đạo. Để “bảo vệ truyền thống”, duy trì kết cấu xãhội phong kiến cũng như vương quyền của mình, các chúa Trịnh đã cho thi hành một biện pháp khác: “tách họ ra khỏi dân gian”, bắt họ đến cư trú ở những nơi cách ly đồng thời cấm không cho truyền đạo. Năm 1643, chúa Trịnh Tráng đã ra một lệnh chỉ cấm các giáo sĩ phương Tây truyền đạo, đốt sách kinh và các giáo đường. Đồng thời, các chúa Trịnh cũng ra sức ngăn người Việt theo Thiên Chúa giáo. Hình thức xử phạt người vi phạm ngày càng nặng. Nếu như năm 1650, người theo đạo khi bị phát hiện phải chịu năm mươi roi, thì đến năm 1670 hình phạt đã lên đến tám mươi trượng [47, tr.313], tức là một hình phạt hết sức nặng nề. Điều này cũng phản ánh những ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá phương Tây vào nền văn hoá Việt Nam truyền thống. Năm Chính Hoà thứ tám (1687), chúa Trịnh Căn đã ra một lệnh chỉ, trong đó cấm người nước ngoài không được tụ tập và trú ngụ tại kinh thành. Nội dung của đạo chỉ như sau: “Điều một: Một đạo lệnh cấm ngặt người nước ngoài không được tụ họp ở Kinh sư và trú ngụ ở đấy. Truyền lệnh cho viên đề lĩnh phải thẳng tay thi hành… Điều bốn: Các người ở trên tàu (chỉ những ngoại kiều) khi đến đây phải ngụ ở nhà của viên trấn thủ Hải Dương. Khi họ có công việc gì cần về Kinh sư sẽ có người đưa đi. Sau khi xong việc, họ phải về nơi đã quy định, không được ở lại Kinh sư. Điều năm: Tất cả các lái đò, kẻ nào dấu giếm chở người nước ngoài sẽ bị trừng trị. Điều sáu: Những người nước ngoài đã được phong tước tử và đã được đăng ký hộ tịch, không ở diện nói trên thì họ được cư trú lại Kinh sư” [47, tr.341]. Sang đầu thế kỷ XVIII với sự trị vì của hai vị chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm thì tâm lý bài ngoại của chính quyền ngày càng tăng. Năm Vĩnh Trị thứ tám (1712) chúa Trịnh đã ra một đạo dụ cấm đạo Hoa lang có nội dung khắt khe: “Phàm ai có đồ đạc và sách vở về đạo Hoa lang thì cho phép nộp lại, xã trưởng hoặc phường trưởng sở tại sẽ cho tiêu huỷ ngay cho mọi người đều biết. Hạn một tháng, ai còn mê đắm dấu điếm thì bắt lập tức giải quan lưu thủ hoặc trấn thủ sẽ cắt tóc đỉnh đầu và thích bốn chữ “ học Hoà lang đạo” để răn đe. Lại thu của bọn tội nhân 100 qua sử tiền để thưởng cho người đã tố cáo. Kẻ đầu sỏ còn trú ngụ ở Sơn Nam thì phải đưa về nước họ….Không cứ người Tây dương, người Nhật bản hay người nước ta đều phải bắt về để trừng trị” [103, tr.400]. Năm 1773, Trịnh Sâm lại hạ lệnh: “Hạn định trong hai tháng, người nào theo đạo Hòa lang phải thay đổi hết phong tục cũ, người nào trái lệnh sẽ bị trị tội. Ai cố ý dung túng sẽ bị tội lây, ai tố cáo được sẽ tha dao dịch cho ba đời” [91, tr.358]. Có thể giải thích được hiện tượng này vì từ cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII thì Đàng Ngoài đã rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Bên cạnh đó, hạn hán, mất mùa xảy ra liên tục. Những giải pháp mang tính tình thế và đối phó không thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra đã làm cho nông dân phải xiêu tán khắp nơi lại càng làm cho tình hình xãhội loạn lạc. Thêm vào đó là tình hình chính trị cũng bất ổn từ cuối thời kỳ chúa Trịnh Giang cầm quyền. Tất cả các nhân tố trên đã dẫn đến kết quả là những cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi, trong đó có sự tham gia của cả các giáo sĩ cũng như là thương nhân người Âu và giáo dân. Tháng 9 - 1670, chúa Trịnh Tạc phải ra một lệnh chỉ “cấm người nước ngoài buôn bán súng trộm cho bọn phản loạn” [42, tr.285]. Điều này làm cho các chúa Trịnh trước đã có “phòng ngự” đối với người phương Tây thì đến lúc này đã đi đến quyết định là chống lại họ bằng những chính sách cứng rắn hơn. Trong suốt ba thế kỷ, các lệnh chỉ cấm đạo đã được đưa ra thi hành vào những năm: 1643, 1662, 1663, 1696, 1670, 1712, 1721, 1723, 1737, 1745, 1753, 1773. Trong đó các chúa Trịnh còn cho thực hiện hình thức mạnh nhất đó là “xử trảm các giáo sĩ vào các năm 1745 và 1773” [73, tr.65]. Như vậy, trong thời kỳ đầu, các chúa Trịnh tỏ ra trọng thị với người phương Tây. Hơn một trăm năm kể từ khi có người châu Âu đầu tiên đặt chân lên đất Đàng Ngoài đã không có một sự kì thị nào đối với người Châu Âu, ngược lại chính quyền còn tạo mọi điều kiện để cho mối quan hệ giữa hai bên được tốt đẹp. Những chính sách xãhội đối với ngoại kiều người Âu thể hiện tính năng động của chính quyền Đàng Ngoài trong việc điều hành đất nước. Nhưng bên cạnh đó phải thừa nhận rằng, chính quyền Đàng Ngoài đã không chú trọng tiếp thu một cách có hệ thống những thành tựu khoa học kỹ thuật của phương Tây mà trên thực tế các chúa Trịnh duy trì mối quan hệ tốt đẹp đó chỉ để tranh thủ được sự trợ giúp của người châu Âu vào cuộc chiến tranh với Đàng Trong cũng như là tạo ra sự phát triển kinh tế công - thương nghiệp Đàng Ngoài. Điều này lại thể hiện tính thực dụng của các chính sách, nó sẽ mở đường cho sự “từ chối” khi mà những ảnh hưởng của người phương Tây tỏ ra nguy hiểm đến nền thống trị đang bước vào giai đoạn khủng hoảng chưa tìm ra lối thoát hữu hiệu, dẫn đến việc các chúa Trịnh đã cho ban hành những lệnh chỉ cấm đạo, thậm chí là cấm cả người châu Âu cư trú ở Đàng Ngoài. Từ việc chống lại tôn giáo một cách cực đoan dẫn đến từ chối tất cả những thành tựu của nền văn minh mới. Những chính sách có tính bài ngoại đó lại làm mất đi điều kiện để người Việt có thể tiếp thu nền văn minh phương Tây, khiến cho Việt Nam thời kỳ này không thể có một phong trào như “phong trào Hà Lan học” của Nhật Bản chẳng hạn, mặc dù người dân Đàng Ngoài vốn không có tâm lý bài ngoại nếu không muốn nói là sẵn sàng tiếp thu nền văn minh phương Tây. 6.2. Những chính sách đối với Hoa kiều Trong các thế kỷ XVII - XVIII, thời kỳ các chúa Trịnh điều hành quốc gia Đại Việt, cũng là lúc người Hoa di cư một cách ồ ạt vào Đàng Ngoài như là một hiện tượng đột biến. Quá trình xâm nhập mạnh mẽ đó bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau: Một là, trong thế kỷ XVII - XVIII, chính quyền Lê - Trịnh chú trọng phát triển kinh tế công thương nghiệp. Vì thế, đã tạo cơ hội cho thương nhân nhiều nước trong đó phần lớn là người Hoa cư trú ổn định và lâu dài trên l•nh thổ Đại Việt. Hai là, sự biến đổi mạnh mẽ của lịch sử Trung Quốc. Triều Minh sụp đổ ở Bắc Kinh năm 1644, thay vào đó là nhà Mãn Thanh, một tộc người thiểu số, nắm quyền thống trị Trung Hoa. Biến cố lịch sử này tạo ra một làn sóng di cư lớn vào Việt Nam. Sự kiện vào tháng 3 - 1682, một đoàn thuyền khoảng 200 chiếc của người Trung Quốc đã đến Đàng Ngoài chứng tỏ Đại Việt là địa bàn lý tưởng cho người Hoa tị nạn. Ba là, năm 1567, nhà Minh nới lỏng lệnh cấm xuất dương buôn bán. Tiếp đó, năm 1648, triều Thanh lại bãi bỏ lệnh cấm xuất dương. Mặt khác, sau khi Nhật Bản thực hiện chế độ “toả quốc” (Sakaku) vào năm 1635 thì hầu như toàn bộ mạng lưới thương mại của người Nhật ở vùng Biển Đông được người Trung Quốc thay thế. Đồng thời, “từ những năm 20 của thế kỷ XVII, người châu Âu, đặc biệt là người Hà Lan ở Đàng Ngoài đã khuyến khích người Hoa buôn bán. Thương nhân Trung Quốc đóng vai trò trung gian trao đổi hàng hóa và tiếp nhận kỹ thuật phương Tây” [86, tr.206]. Những yếu tố này đã kích thích nhiều thương nhân Hoa kiều đến Việt Nam. Bốn là, các triều đại phong kiến Trung Quốc không ngừng tìm cách thôn tính Đại Việt. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình hình phức tạp diễn ra dọc biên giới Việt - Trung. Hệ quả là nhiều lần Đàng Ngoài phải “đón nhận” những dòng người phương Bắc tràn sang lãnh thổ. Thực tế diễn ra trong suốt thế kỷ XVI - XVIII, bằng đường bộ hay đường thuỷ, khi thưa thớt, lúc ồ ạt, đã có một lượng không nhỏ người Trung Quốc di cư vào Đàng Ngoài. Họ chủ yếu tụ cư tại những trung tâm đô thị và các khu mỏ khai khoáng. Ở Thăng Long, nhà nước tập trung Hoa Kiều vào khu vực phía tây sông Tô Lịch, cho họ lập phường Hà Khẩu [29, tr.158]. Các Hoa kiều khi đến Đại Việt đã cố gắng len lỏi để được cư trú và buôn bán ở Thăng Long - trung tâm công thương nghiệp lớn nhất Đàng Ngoài. Cuốn “Phan thế kỷ sự” của họ Phan ở Hàng Ngang ghi: “tổ tiên của họ Phan đã từ Hiến Nội lên cư trú ở Thăng Long vào đời Ung Chính” [86, tr.82] (tức là khoảng năm 1723 - 1735). Tuy nhiên, phố Hiến mới là nơi cư trú chủ yếu của người Hoa, bởi các chúa Trịnh chủ trương tập trung họ đến nơi này. Trong thời gian làm trấn thủ Sơn Nam, quan Thái Bảo Lê Đình Kiên đã phải “đánh dẹp bọn Tàu ô, là con cháu nhà Minh trốn tránh nhà Thanh sang quấy nhiễu vùng Quảng Yên và lấy 27 mẫu 2 sào 1 thước 1 tấc ruộng công của hai làng An Vũ và Nhân Dục cấp cho người Hoa làm nhà ở và xây chùa” [86, tr.40]. Việc nhà nước cho phép tiếp nhận người Hoa ở Đàng Ngoài làm cho mật độ Hoa kiều ở Phố Hiến tăng lên nhanh chóng. Năm 1640, khi xây dựng đền Thiên Hậu, “có đến 40 dòng họ người Trung Quốc quyên góp” [86, tr.203]. Khu phố Bắc Hòa xưa kia đã được mở rộng thành 3 phố: Bắc Hòa Thượng, Bắc Hòa Trung, Bắc Hoà Hạ, chiếm hầu hết vùng đất của phố Hiến cũ, khiến nhiều nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng phố Hiến là “phố khách”, nghĩa là một đô thị của người Hoa. Trong vùng Thanh Hoá và Nghệ An, Mặc dù nơi đây từng có một thời gian dài là chiến trường ác liệt (1627 - 1672), nhưng vẫn có khá đông Hoa kiều đến định cư. Họ đã lập ra “phố khách” ở Phan xá thuộc Nghi Xuân; Tại vùng Phù Thạch (nay thuộc Vĩnh Đại - Đức Thọ - Hà Tĩnh), người Trung Quốc đã lập ra làng Minh Hương với số lượng “khoảng 100 hộ, bao gồm 12 dòng họ” [86; 213]. Theo Ngô Thì Sĩ, cuối thế kỷ XVII, ở Đàng Ngoài “có khoảng 5 - 6 vạn người Hoa, họ cư trú tập trung nhiều nhất ở hai trung tâm Kẻ Chợ và Phố Hiến” [86, tr.204]. Đây là một con số tương đối, vì thời kỳ này việc điều tra dân số của Nhà nước không được thực hiện một cách đầy đủ và chính xác. Hơn nữa, Ngô Thì Sĩ chủ yếu nói đến số cư ngụ trong vùng đô thị. Khi nghiên cứu tình hình Hoa kiều thời kì này chúng ta không thể không tính tới số lượng người Trung Quốc cư trú dọc biên giới phía Bắc, đặc biệt là khu vực có khoáng sản. Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào thống kê chính xác tổng số người Trung Quốc cư trú ở vùng giáp biên giới, nhưng từ những tư liệu chúng ta có thể tiếp cận được thì rõ ràng con số đó là không nhỏ. Lê Quý Đôn trong sách “Kiến văn tiểu lục” viết: “ở châu Quảng Lăng, người Trung Quốc đến định cư, khai mỏ chia thành 3 phố: Hồ Quảng, Quảng Tây và Khai Hoá;…ở châu Sơn La, có người Trung Quốc mở xưởng khai mỏ vàng tại Yết Ong; ở xứ Tuyên Quang có người Nùng, người Hoá Thường(sách Cương mục ghi là Hoá Vi), người Thái, người Mông, người Ngô Ngàn, người Triều Châu đều từ Trung Quốc di cư sang; ở Tụ Long ước ba bốn ngàn người đều là người Hồ Nam và Triều Châu gọi là “người Thuỷ Bi”…Họ ở trong các xưởng khai đồng ước tính 300 nhà, ở phố và chợ ước ngàn nhà nữa” [23, tr.335]. Sách “Lê hoàng triều kỷ” cũng cho biết, đến giữa thế kỷ XVIII, chỉ riêng “số phu mỏ người Hoa ở xưởng khoáng Tống Bình thuộc châu Bạch Thông xứ Thái Nguyên có lúc lên tới hàng vạn” [95, tr.70]. Đáng chú ý, trong thời kỳ này, Hoa kiều có vai trò lớn trong kinh tế công thương nghiệp của Đàng Ngoài. ở miền núi, họ nắm quyền khai thác lâm, khoáng sản; còn tại đồng bằng, “người Hoa là một lực lượng chính nắm giữ nền thương mại” [105, tr.,85]. Là một cộng đồng người đông đảo, hơn nữa còn có vai trò nhất định trong nền kinh tế công thương nghiệp, triều đình muốn hay không cũng buộc phải có những chính sách xã hội phù hợp đối với họ. Trên thực tế, các chúa Trịnh đã cố gắng đưa ra nhiều biện pháp nhằm quản lý chặt chẽ cộng đồng Hoa kiều. Trước hết, để dễ dàng kiểm soát, chính quyền Đàng Ngoài cho tách người Trung Quốc vào những khu định cư riêng. Năm Khánh Đức thứ hai (1650), chúa Trịnh Tráng ra một lệnh chỉ cấm người nước ngoài mà chủ yếu nhằm vào người Trung Quốc, không được ở lẫn trong dân: “chỉ được ở địa phận các xãThanh Trì và Khuyến Lương… Sứ thần Tàu, cũng như khách thương từ đường bộ đến, phải cho ở trọ tại điếm An Thường đợi lệnh để nghiêm giữ lễ phép và ngăn ngừa dòm ngó” [47, tr.177]. Nhưng thời điểm này quy chế trên chỉ mới được áp dụng ở Kinh thành. Còn những nơi khác, ngay cả tín ngưỡng của họ cũng không bị cấm đoán, vì Nhà nước chủ trương tạo điều kiện cho người Trung Quốc có cuộc sống ổn định. Không như ngoại kiều phương Tây, người Hoa và người Việt có nhiều nét tương đồng về văn hóa - hệ quả của sự giao thoa hàng ngàn năm giữa hai nền văn hóa. Do vậy, Hoa kiều có thể cùng sinh hoạt tín ngưỡng với dân bản địa. Rất nhiều đền chùa được xây dựng có công đóng góp của người Trung Quốc đã minh chứng cho điều đó. Chẳng hạn, chùa Hiến được dựng trong thời gian này có công quyên góp của 56 người, với 27% tổng số tiền xây dựng. Từ con số này, có nhà nghiên cứu cho rằng: “mức gắn bó cũng như quan tâm của người Trung Quốc ở vùng đất này không cao lắm” [86, tr.122]. Kết luận đó chưa thuyết phục. Bởi trên thực tế thì cộng đồng người Hoa ở Đàng Ngoài còn được phép xây dựng những trung tâm văn hóa riêng. Ngay từ năm 1597, người Trung Quốc đã xây dựng Đông đô quảng hội ở Phố Hiến, thờ Tam thánh và làm trụ sở giao tiếp của những người đồng hương. Sau đó là đền Thiên Hậu (1640), đền Võ Miếu (1740), chùa Bắc Hòa ở Phố Hiến hay đền Cờn ở Nghệ An... Nhưng, để thuận lợi cho việc quản lí xãhội, chính quyền Đàng Ngoài đã buộc Hoa kiều phải đăng kí hộ khẩu. Năm 1663, chúa Trịnh Tạc ra một lệnh chỉ: “phải khai sổ minh bạch, hết thảy người ngoại quốc ngụ trong nước ta” [47, tr.127]. Như vậy, những quy định ngày càng được thắt chặt hơn, cho thấy sự thận trọng của các chúa Trịnh đối với người Trung Quốc. Điều này còn được minh chứng qua sự kiện, tháng 3 - 1682, một đoàn thuyền buồm của Trung Quốc gồm 200 chiếc có trang bị vũ trang, tị nạn đến Đàng Ngoài, nhưng chúa Trịnh chỉ cho lưu lại có 1 tháng rồi buộc họ phải rời vào phương Nam [86, tr.156]. Sự phòng bị của chính quyền Đàng Ngoài là có cơ sở vì lúc này triều đình phải chống lại rất nhiều thế lực, trong đó, kẻ thù lớn nhất, nguy hiểm nhất chính là Trung Quốc, bởi triều đình Mãn Thanh sau khi đã củng cố được sức mạnh và đang muốn bành trướng xuống phía nam. Các sự kiện xảy ra ở biên giới cùng thời điểm đã chứng tỏ điều đó. Hơn nữa, những người Hoa cư trú trên lãnh thổ Đàng Ngoài rất có thể sẽ trở thành những tên gián điệp, không chỉ cho phương Bắc mà cho cả các thế lực phong kiến khác. Đã xcó lần chúa Nguyền “bí mật sai bọn khách buôn Phúc Kiến vào Thăng Long và các trấn để dò la việc nước và tình hình quân sự Đàng Ngoài” [36, tr.215]. Để “bảo vệ xãtắc”, năm 1687, chính quyền Đàng Ngoài đã hạn chế người Hoa cư trú ở Thăng Long: “cấm người ngoại quốc được tụ họp nhau ở Kinh kỳ… Cai điệu (quan tiếp sứ) phải hướng dẫn và cấp giấy phép có thời hạn cho họ… trái lệnh này, sẽ khép tội các quan chức có trách nhiệm và trừng trị bọn ngoại kiều mà đuổi đi” [47, tr.341]. Tuy nhiên, ngay trong quy định này, chúa Trịnh vẫn cho phép một số người Hoa hoạt động tự do. Trong lệnh chỉ cũng ghi rõ: “những người ngoại quốc đã đăng ký hộ tịch, đã cư trú trong Kinh kỳ, thì không phải theo lệnh cấm này” [47, tr.341]. Mặc dù vậy, các chúa Trịnh đã ý thức được rằng, dù có những nét tương đồng văn hoá song không thể đồng nhất, người Việt luôn tự hào về sự khác nhau của “phong tục Bắc Nam xưa nay”. Để bảo vệ được độc lập quốc gia, trước hết phải giữ gìn được bản sắc của dân tộc. Muốn vậy, không có phương thức nào hơn là đồng hoá “những người Mãn Thanh gióc tóc, mặc áo vắn” [103, tr.37] trên lãnh thổ Đại Việt. Thực hiện chính sách đó, năm 1696, chúa Trịnh Căn buộc người Hoa kiều phải theo phong tục nước ta: “…Từ ngôn ngữ đến ăn mặc đều phải tuân theo phong tục nước ta chứ không được càn bậy nói tiếng lạ và mặc quần áo lạ. Nếu kẻ nào vi phạm thì cho phép các quan trấn thủ và đề lãnh xử phạt 50 trượng”6. Thêm một bước nữa, năm 1717. Chúa Trịnh Cương lại quy định: “cho phép họ ở đâu thì nhập quốc tịch và chịu tạp dịch ở đó. Từ tiếng nói, ăn mặc, đầu tóc đều phải nhất luật tuân theo phong tục nước ta. Nếu không sẽ bị trục xuất” [90, tr.72]. 6.4. Ở vùng biên giới, tình hình tỏ ra khó khăn và phức tạp hơn. Mặc dù từ thế kỷ XVII, nhà Minh từng bước suy vong; còn nhà Thanh, sau khi xác lập cũng phải ra sức củng cố quyền thống trị của mình ngay trên đất Trung Quốc, nhưng các triều đại Trung Hoa vẫn luôn tiến hành âm mưu thôn tính Đại Việt. Đây là một biểu hiện của Chủ nghĩa Đại Hán mà người Trung Hoa chưa bao giờ từ bỏ đối với nước Nam. Chủ nghĩa Đại Hán là tư tưởng tự cao, tự đắc của dân tộc Hán. Nó còn được tiếp sức thêm bằng tư tưởng “nội hạ ngoại di”, là tư tưởng chính thống của Nho giáo. Chủ nghĩa Đại Hán cho rằng: chỉ có dân tộc Hán là văn minh, là “Hoa hạ”, ngoài ra, phía bắc là “địch”; phía đông là “di”; phía tây là “nhung”; phía nam là “man” và là đối tượng thôn tính của họ. Ngay cả người Việt Nam cũng bị xem là “man”, “di”. Các ông vua Trung Quốc dẫn quân đi xâm chiếm nước khác thì được coi là “hợp với lẽ Trời”; hành động đi xâm lược lại được xem là “thiên tử” đi “chinh” hoặc đi “phạt” để “bình thiên hạ”. Đánh bại thì thi hành chính sách đồng hóa, đánh không lại thì dùng chiêu bài “phong vương”, “phong bá” cho các “phiên bang”. Các nguồn sử liệu ghi lại, trong suốt thế kỷ XVII - XVIII, chính quyền phương Bắc rất nhiều lần xâm lấn Đại Việt: Năm 1684, “nhà Thanh sai thổ quan Khai Hoá xâm chiếm các động ở ba châu Vị Xuyên, Bảo Lạc và Thuỵ vĩ” [11, tr.204] Năm 1669, “sứ thần nhà Thanh sang dụ Triều đình đem 4 châu thuộc Cao Bằng cho họ Mạc” [103, tr.231]. Với động thái này, nhà Thanh muốn nuôi dưỡng một lực lượng đối trọng để lợi dụng, uy hiếp chính quyền Đàng Ngoài; Năm 1685, “Vũ Công Tuấn từ Vân Nam trở về tụ họp người Thổ và người Nùng khuấy nhiễu ở Tuyên Quang” [36, tr.111]. Năm 1688, “thổ quan phủ Khai Hoá thuộc Vân Nam lại mang người chiếm ba châu Vị Xuyên, Thuỵ Vĩ và Bảo Lạc” [36, tr.145] Năm 1699,”Sầm Trì Phượng ở châu Tiểu Trấn Yên của nhà Thanh đem quân xâm lấn châu Bảo Lộc thuộc Tuyên Quang” [103, tr.383] Năm 1701, “thổ quan nhà Thanh là Vy Vinh Diệu xâm chiếm ruộng của nhân dân ở châu Lộc Bình” [11, tr.205] Năm 1722, “Đèo Mỹ Ngọc dựa vào viện trợ của nhà Thanh nổi loạn chiếm cứ châu Quỳnh Nhai của nhà Thanh” [103, tr.433] Năm 1744, “họ Mạc trốn ở Quảng Tây về làm loạn các vùng Cao Bằng, Hưng Hoá, Thái Nguyên và Tuyên Quang” [103, tr.573] Năm 1771, “thổ quan châu Tự Lăng của Quảng Tây xâm chiếm địa giới xãTĩnh Gia thuộc châu Lộc Bình” [103, tr.695] Năm 1779, “Hoàng Văn Đồng nổi loạn ở Tụ Long” [103, tr.748] Năm 1780, “thổ quan nhà Thanh tấn công 10 châu và chiếm 4 châu ở Hưng hóa” [103, tr.754] Năm 1787, “quân giặc ở Cao Bằng lại nổi loạn” [90, tr.477] Để đối phó với những thủ đoạn thâm độc đó, các chúa Trịnh phải tìm giải pháp phù hợp. Trước hết, buộc phương Bắc thừa nhận chính quyền của các chúa Trịnh là đại diện duy nhất của Đại Việt. Để đạt được điều đó, tháng 5 - 1647, nhà Lê - Trịnh đã nhận sắc phong của triều Minh, dù biết rằng nhà Minh sẽ không tránh khỏi diệt vong. Đây không phải là hành động lợi dụng đối phương đang phải “giở trò ăn xin” [103, tr.262] của chính quyền Đàng Ngoài như các sử gia triều Nguyễn đã đánh giá, bởi phương Bắc chưa bao giờ cho mình là kẻ phải "đi ăn xin" cả. Vấn đề này cần phải được nhìn nhận khách quan hơn. ở đây, các chúa Trịnh đã áp dụng phương pháp truyền thống, dùng sách lược mềm dẻo trong quan hệ với một nước lớn. Hơn nữa, chính quyền Đàng Ngoài lúc này muốn được thừa nhận một cách “danh chính ngôn thuận” và mục tiêu lớn hơn là buộc Trung Quốc công nhận nền độc lập và chủ quyền của Đại Việt - nó sẽ là cơ sở pháp lý trong việc giải quyết nhiều vấn đề khác giữa hai quốc gia. Chỉ có thời điểm mà các triều đại phương Bắc đang khủng khoảng mới có thể dễ dàng chấp nhận những yêu cầu của Đại Việt. Điều này được minh chứng qua sự kiện năm 1677, nhà Thanh đã tự sang phong cho vua Lê làm “An Nam quốc vương”. Rõ ràng, các chúa Trịnh đã biết lợi dụng thời cơ để đạt được mục đích của mình. Bên cạnh sách lược mềm dẻo, triều đình Lê - Trịnh còn tỏ ra rất cứng rắn, không để phương Bắc biến Đại Việt thành một thuộc quốc. Năm 1669, khi nhà Thanh sang yêu cầu phải đem 4 châu thuộc Cao Bằng cho họ Mạc, triều đình không chịu chấp nhận, sau đó “hai bên giằng co hơn 40 ngày mới gượng gạo theo” [103, tr.321]. Tháng 12 - 1779, khi sứ Thanh sang đưa sắc phong, yêu cầu nhà vua phải làm lễ 3 lần quỳ 9 lần vái (tam quỳ cửu khấu). Nhưng triều đình “chỉ theo lễ nghi trong nước, làm lễ 5 lạy 3 vái (ngũ vái tam khấu)” [103, tr.416] và buộc sứ thần nhà Thanh phải theo. Chính quyền Đàng Ngoài luôn nhận thức rằng, Trung Quốc luôn là đối tượng đặc biệt cần được chú trọng hàng đầu trong các mối quan hệ bang giao. Hơn nữa, các chúa Trịnh đã rất kiên quyết trước sự áp đặt, sẵn sàng chống lại kẻ thù. Thái độ này được một người Pháp tên là J. B. Tavernier khẳng định: tất cả triều đình và dân chúng “thề sẽ mãi mãi trung thành với vua, xin xả thân vì vua để chống lại quân Trung Quốc” [32, tr.83]. Còn Ngô Cao Lãng ghi lại sự kiện năm 1724, triều đình mở khoa thi Hoành từ, chúa Trịnh Cương đã lấy ngay việc ở vùng biên giới để ra đề thi: “các thi sinh dự thi phải soạn một công văn trả lời Tổng đốc Vân Nam, trong đó trình bày các lý lẽ tỏ ra rằng các trại ven ải ở Tuyên Quang, Hưng Hóa và các xưởng đồng ở MãYên thuộc Đô Long đều thuộc bờ cõi nước ta chứ không bá chiếm, vì vậy, bên xâm chiếm phải là nhà Thanh” [37, tr.83]. Bằng những phương pháp ngoại giao linh hoạt, các chúa Trịnh có thể ổn định tình hình biên giới. Kết quả là đã lấy lại được một số đất đai bị nhà Thanh xâm chiếm, trong đó có vùng Tụ Long là nơi có nhiều quặng đồng quý. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, trong suốt thời gian nắm thực quyền ở Đàng Ngoài, các chúa Trịnh “chỉ thi hành một chính sách đối ngoại bạc nhược và đồng thời cũng thể hiện sự suy yếu của chính quyền Lê - Trịnh” [90, tr.101]. Đây là một đánh giá có phần thiếu khách quan. Nhận định này chỉ đúng với giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, khi mà chính quyền Đàng Ngoài đã rơi vào khủng khoảng và suy sụp. Chúng ta không thể phủ nhận được rằng, từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII các chúa Trịnh đã thi hành một đường lối ngoại giao khá linh hoạt và hiệu quả. Quan hệ bang giao giữa Đại Việt và các triều đại Trung Quốc trong thế kỷ XVII - XVIII là một vấn đề phức tạp cần có những nghiên cứu sâu hơn, trong giới hạn của đề tài, mới chỉ có thể dừng lại ở việc tìm hiểu những nét cơ bản để làm rõ một số chính sách xãhội của các chúa Trịnh đối với Hoa kiều lưu trú tại vùng biên giới. Bởi khi đã ổn định được biên giới, Nhà nước mới có khả năng quản lý tốt cộng đồng ngoại kiều ở đây. Cũng như vùng đồng bằng và đô thị, các chúa Trịnh đã chủ trương “Việt hóa” người Hoa kiều. Năm 1696, chúa Trịnh Căn ra một quy định nêu rõ: “nhân dân ở ven biên giới không được bắt chước tiếng nói và đồ mặc của phương Bắc” [103, tr.373]. Khó khăn lớn của chính quyền Lê - Trịnh là đã để cho người Trung Quốc bao chiếm việc khai mỏ. Vì một khi các mỏ đã mở rộng cho người Hoa khai thác không tránh khỏi những tên chúa phong kiến từ bên kia biên giới chạy sang làm chủ các mỏ. Bọn chủ mỏ này lại thường biến thành những tên trùm thổ phỉ, không những không chịu đóng thuế cho triều đình mà còn dựa vào sự hậu thuẫn của nhà Thanh chống lại cả triều đình. Phu mỏ người Trung Quốc phần lớn là dân lưu tán ở vùng Vân Nam hay Lưỡng Quảng và cũng dưới quyền của những tên thổ phỉ kia. Khi triều đình suy yếu thì lực lượng này sẵn sàng chống lại sự kiểm soát và thu thuế của nhà nước. Trên thực tế đã có nhiều cuộc nổi loạn của người Hoa trong các mỏ khai khoáng, điển hình như cuộc nổi loạn của Hàng Văn Đồng ở vùng Tụ Long. Trước tình hình đó, năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1717), chúa Trịnh đã ra lệnh hạn chế số phu mỏ, “nhiều nhất trong một xưởng chỉ có 300 người… để phòng tránh sự tụ họp của người khách” [13, tr.79]. Nhưng vấn đề trở nên không thể giải quyết triệt để. Tình hình phức tạp ở vùng biên giới do người Hoa kiều gây ra từ giữa thế kỷ XVIII được Ngô Thì Sỹ ghi lại: “… các mỏ khai khoáng, viên giám đương tập hợp rất đông các người khách Trung Quốc đến khai thác… Số phu mỏ ở mỗi xưởng lên tới hàng vạn. Mỗi khi tranh chấp miệng lò là đem quân đến đánh nhau. Triều đình coi chúng là loại người ngoài vòng giáo hóa. Chỉ cốt thu thuế cho đủ, nhưng nhiều khi thuế nộp cho nhà nước mười phần không được một” [91, tr.297]. Để đối phó với tình hình, năm 1712, chính quyền Đàng Ngoài bắt đầu bãi bỏ việc kiêm nhiệm, điều quan của triều đình lên làm việc trực tiếp tại lỵ sở của các xứ biên giới vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn và An Quảng. Đồng thời lệnh cho các quan chức địa phương: “nếu mất cảnh giác thì phải chịu tội. Nặng thì quan trấn thủ bị đình nhậm, quan huyện hoặc quan châu bị bãi chức, còn xã trưởng hay trưởng thôn sẽ bị tội lưu” [36, tr.198]. Mặt khác, triều đình tìm cách phối hợp với chính quyền Trung Quốc quản lý chặt chẽ hơn số Hoa kiều ở vùng biên. Năm 1767, triều đình gửi thư cho Tổng đốc Lưỡng Quảng đề nghị hai điều: Người Trung Quốc sang Đại Việt cư trú phải bắt buộc theo phong tục của người Việt; việc mua bán phải có sự thoả thuận của cả hai bên. Sau khi biết phía Lưỡng Quảng làm ngơ trước những đề nghị đó, chúa Trịnh Doanh đã quyết định dùng biện pháp cưỡng ép: “… đuổi hết phu mỏ Hoa kiều về nước; còn ai muốn ở lại phải theo phong tục của người Việt và biên vào sổ hộ tịch” [91, tr.297]. Tuy nhiên chính sách này không được thực thi triệt để vì chúa Trịnh Doanh ngay sau đó đã qua đời. Vị chúa kế nhiệm do tập trung vào đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân và tiến hành “Nam chinh” nhằm thống nhất Trong Ngoài nên buông lỏng vùng biên giới phía Bắc, mọi công việc giao cho thổ tù và quan địa phương quyền quyết định. Năm 1769, Trịnh Sâm cho ban bố những quy định sau: “…Xá tội cho các tù trưởng, vẫn cho làm tù mục; thổ binh liệu xuất mà gọi, cho lập đồn tự phòng thủ lấy;” [91, tr.328]. Chính sách này cho thấy, đến cuối thế kỷ XVIII, triều đình đã khó có thể kiểm soát được tình hình biên giới. Từ những chính sách xãhội đối vời Hoa kiều mà các chúa Trịnh cho thực thi trong suốt thế kỷ XVII - XVIII như đã trình bày, chúng ta có thể đưa ra một số nhận định sau: Thứ nhất, triều đình Lê - Trịnh luôn nhận thức được rằng, cần đặc biệt quan tâm và có những chính sách xãhội phù hợp với cộng đồng Hoa kiều. Cho đến giữa thế kỷ XVIII, song song với việc áp dụng sách lược ngoại giao mềm dẻo và linh hoạt, các chúa Trịnh đã đưa ra được một số chính sách xãhội phù hợp, có khả năng kiểm soát và quản lí cộng đồng người Hoa. Thứ hai, phần lớn những chính sách mà các chúa Trịnh đề ra chỉ mới chủ yếu thực thi một cách có hiệu quả ở vùng đồng bằng, nơi mà các chúa Trịnh có thể dùng sức mạnh của bộ máy chính quyền. Ngược lại, tại vùng biên giới, việc quản lí của triều đình lại khá lỏng lẻo. Đặc biệt là từ cuối thế kỷ XVIII, Nhà nước đã không thể kiểm soát được cộng đồng Hoa kiều. Các công trường khai thác khoáng sản do nhà nước quản lý, xong thức tế đã bị người Trung Quốc lũng đoạn. Một số vùng đất rơi vào tay người phương Bắc không thể đòi lại được. Thứ ba, mặc dù có chú ý phát triển kinh tế công thương nghiệp, nhưng về cơ bản trong suốt thế kỷ XVII - XVIII, nhà Lê - Trịnh vẫn chủ yếu duy trì một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, do đó đã hạn chế người Việt hoạt động công thương nghiệp. Kinh tế công thương của Đàng Ngoài do cộng đồng người Hoa và những người ngoại quốc khác nắm giữ, buộc nhà nước phải phụ thuộc và bị chi phối. Trong khi đó, kinh tế mới là cơ sở để ổn định xãhội. Một nhận xét của Li Ta Na về người Hoa ở Đàng Trong thời bấy giờ có lẽ cũng đúng với cả Đàng Ngoài: “Các thương gia Trung Quốc đã tạo cơ sở cho phép họ chế ngự nền thương mại của Việt Nam trong hai thế kỷ kế tiếp” [40, tr.103]. Do vậy, dù đã cố gắng bằng nhiều biện pháp nhưng thực tế không cho phép lúc nào các chúa Trịnh cũng có thể kiểm soát chặt chẽ cộng đồng Hoa kiều, đặc biệt là vùng biên giới. Đây là một nguyên nhân khiến cho Triều đình lúng túng, đa số các chính sách xã hội được ban hành chỉ mang tính đối phó. Kết luận Thế kỷ XVII - XVIII là giai đoạn đặc biệt đầy biến động của lịch sử dân tộc. Nhà Lê bước vào suy vong từ thế kỷ XVI kéo theo hậu quả của nó là những cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến dẫn đến cục diện Nam - Bắc triều và sau đó là Trịnh - Nguyễn phân tranh (chưa kể các cuộc khởi nghĩa nông dân) đã làm cho chiến tranh xảy ra liên miên suốt thế kỷ XVI - XVII - XVIII. Cuộc khủng hoảng diễn ra trên tất cả các mặt đời sống chính trị, xãhội, kinh tế, văn hóa, đúng vào lúc Đại Việt phải đối diện với một làn sóng văn minh mới từ phương Tây tràn sang theo những thương thuyền của các nước tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh hết sức phức tạp đó, bất cứ một dòng họ hay một ông vua nào nắm quyền cai trị quốc gia cũng buộc phải đưa ra những biện pháp làm thay đổi tình hình mới có thể củng cố, ổn định và phát triển được đất nước. Xác lập quyền thống trị từ cuối thế kỷ XVI, họ Trịnh tỏ ra rất khôn khéo trong giải pháp chính trị: dựng nên một chính quyền kép, còn gọi là “lưỡng đầu chế” - đó là thể chế chính trị đặc biệt và duy nhất trong thời kì quân chủ Việt Nam - một triều đình vừa có vua Lê lại vừa có chúa Trịnh, trong đó, vua Lê chỉ mang ý nghĩa về mặt tinh thần, còn quyền lực thực chất nằm trong tay các chúa Trịnh. Bằng cách này, họ Trịnh có thể bảo vệ được quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn không bị cho là cướp ngôi hay mang cái danh “nhuận triều” trên con đường mưu bá đồ vương. Nhưng để duy trì được chế độ hơn hai thế kỷ như những gì đã diễn ra thì không phải chỉ có thế. Trong suốt hơn 200 năm nắm thực quyền điều hành quốc gia Đàng Ngoài, các chúa Trịnh đã thực hiện nhiều chính sách có hiệu quả trong việc củng cố và phát triển kinh tế - xãhội. Đây mới là cơ sở cốt yếu cho sự tồn tại của vương triều Lê - Trịnh trong lịch sử. Trong kinh tế, chính quyền Đàng Ngoài đã có nhiều cải cách về chính sách tài chính và thuế khóa được thực hiện ở thời kỳ chúa Trịnh Cương. Trong đó, Triều đình đơn giản hóa thể thức vào ba loại thuế: tô, dung và điệu phần nào giảm bớt sự phiền phức cho nhân dân trong việc gánh các thứ thuế. Bên cạnh đó, áp dụng một mức thuế tương đối thấp (khoảng 20% thu hoạch) và còn cho giảm hoặc miễn các thứ thuế thiếu vào những thời điểm có thiên tai địch họa đã đảm bảo đời sống nhân dân, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất. Trong khi đó, mặc dù, có thời kì bãi bỏ chức quan Hà đê nhưng các chúa Trịnh vẫn rất chú trọng vào các biện pháp khuyến nông, chăm lo việc phòng chống thiên tai, khai hoang, phục hồi sản xuất. Đặc biệt, các biện pháp trong kinh tế công thương nghiệp mà các chúa Trịnh cho thực hiện đã đưa đến sự biến đổi lớn, tạo nên một dấu mốc rõ rệt của thời kì này so với tất cả các thời kì quân chủ Việt Nam trước và sau đó, có nền tảng kinh tế mang tính chất gần như thuần túy nông nghiệp. Chính sách “mở cửa” thông thương với tất cả các nước trong thế kỷ XVII làm hưng khởi một số trung tâm đô thị như Kinh Kỳ, Phố Hiến… Những biện pháp linh hoạt và năng động này đã mở đường cho kinh tế hàng hóa phát triển và là một sự đột phá lớn vào nền kinh tế cổ truyền. Song song với những chính sách kinh tế, các chúa Trịnh cho thực hiện một số biện pháp nhằm ổn định xãhội Đàng Ngoài, trong đó quan trọng nhất là những nỗ lực xây dựng một xãhội có trật tự theo kỷ cương của Nho giáo, đồng thời với những cố gắng nhằm “Việt hóa” người ngoại quốc, hoặc ít ra cũng buộc họ tuân theo phong tục Việt. Một cách khách quan, không thể phủ nhận được tính hiệu quả của những biện pháp mà các chúa Trịnh cho thực thi. Bởi trên thực tế nó đã đưa đến sự ổn định và phát triển của kinh tế - xãhội Đàng Ngoài ở một vài thời kì mà các nhà sử học thời bấy giờ thường dùng những từ như “được mùa to” hay “thời thịnh trị”… để ghi lại. Những chính sách phù hợp đó, cho dù chỉ có tác dụng trong từng thời điểm, nhưng đã đưa dân tộc Việt Nam sang một trang sử với nhiều điểm đặc sắc, đồng thời cũng giúp các chúa Trịnh có thể duy trì chính thể của mình suốt thế kỷ XVII - XVIII. Nhưng triều đình Lê - Trịnh không thể tiếp tục sự tồn tại của mình sau năm 1787. Phải chăng tất cả những cố gắng của các chúa Trịnh hơn hai thế kỷ chỉ đủ cho vị chúa thứ chín của triều đại này làm cái nhiệm vụ phá vỡ giới tuyến sông Gianh ngăn cách Đàng Trong - Đàng Ngoài?! Nội dung câu trả lời cho những nghi vấn đó chủ yếu nằm trong các chính sách của các chúa Trịnh. Bởi trong những biện pháp kinh tế - xãhội còn hạn chế mà chính quyền Đàng Ngoài đã áp dụng vẫn chưa phải là giải pháp hữu hiệu nhất để có thể đưa Đại Việt thoát khỏi khủng hoảng. Chúng ta không thấy có mấy đổi mới thực sự trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp - vốn được coi là ngành kinh tế làm “bà đỡ” của triều đình Lê - Trịnh. Điều đáng chú ý là trong ngoại thương, những chính sách của Nhà nước Lê - Trịnh mang tính chất thực dụng rõ rệt. Các chúa Trịnh cho phát triển thương mại nhằm phục vụ cho chiến tranh. Hơn nữa, nền thương mại của Đàng Ngoài thời kì này bị thương nhân nước ngoài lũng đoạn. Do đó, khi nhu cầu quân sự không còn, cùng lúc với những biến động không mấy thuận lợi của tình hình mậu dịch quốc tế đã khiến cho cơ sở vốn tạo ra một thời kì huy hoàng của kinh tế công thương nghiệp Đàng Ngoài bị các lực lượng mà Nhà nước không thể kiểm soát nổi làm suy vi. Cái làm cho chính quyền Đàng Ngoài mạnh cũng làm cho chính quyền Đàng Ngoài phải trả giá. Hệ quả tiêu cực biểu hiện ở quá trình hưng khởi của các đô thị như một hiện tượng đột biến, nhưng sự tàn lụi của những trung tâm sầm uất một thời đó cũng rất đột ngột. Vào nửa sau thế kỷ XVIII, phần lớn cư dân trong các làng buôn và làng nghề thủ công đã lại phải ra đồng cày cấy. Mặt khác, do không chú trọng đến tiếp thu khoa học kĩ thuật phương Tây, các chúa Trịnh đã làm cho dân tộc ta bị bỏ lỡ một cơ hội chủ động hòa nhập với làn sóng văn minh mới đang phát triển - mà thời kì này được coi là một giải pháp nhằm giải quyết tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng ở Đàng Ngoài, mở đường cho sự phát triển của đất nước, để sang thế kỷ XIX, khi các nước tư bản phương Tây bước sang giai đoạn đế quốc thì Việt Nam phải chịu sự áp đặt nghiệt ngãvà lịch sử dân tộc bước vào một giai đoạn đen tối, quanh co nhất. Những thành công cũng như những hạn chế trong các chính sách kinh tế - xãhội mà các chúa Trịnh áp dụng ở thế kỷ XVII - XVIII để lại bài học quý báu về cách thức quản lý kinh tế - xãhội, về “mở cửa” và “hội nhập” ở Việt Nam hiện nay. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Bốn bảy điều giáo hoá ban hành năm 1663 Tháng 7, năm Quý Mão năm đầu, niên hiệu Cảnh Trị (1663) cáo thị rõ những điều lệ về đường giáo hoá (cộng bốn bảy điều) Một là đạo làm bày tôi, phải hết lòng trung trinh, hết sức chân tay. Quan văn thì giữ chính đạo làm việc công, siêng năng chức vụ. Khi bàn việc, phải bày điều phải điều trái, khiến cho công việc đều hợp lý, không được a dua hay im lặng chẳng bày tỏ được lẽ gì. Khi tra xét kiện cáo, thì phải phân biệt kẻ hay kẻ dở, khiến cho đều được bày tỏ thực tình, không được thiền vị tư tình hay tiền tài, mua ơn kết đảng. Quan vũ phải bảo vệ nước, chống ngoại xâm, đồng lòng hợp sức. Khi sửa sang việc binh, phải chăm chỉ thao luyện, khiến quân đội đều trở nên tinh nhuệ, không được bỏ khoáng sự luyện tập, để rối loạn hàng ngũ. Trị dân thì phải điều hoà thuế khoá, nâng đỡ đời sống của dân, khiến cho đều được mông ân huệ, không được uy hiếp hay lừa dối dân chuyên làm điều tàn khắc. Như thế mới có thể chức phận làm tôi. Đạo làm con phải hiếu kính cha mẹ; khi tuổi già phải sớm khuya phụng dưỡng, không được để thiếu thốn, cùng là không được bắt buộc các con phải làm các việc khó nhọc, mới cấp cho ăn uống. Các việc tế tự hay tang táng thì phải căn cứ vào sách lễ. Như thế mới có thể hết đạo làm con. Đạo làm anh em, phải cùng nhau hòa thuận. Anh thì yêu em, em thì kính anh; chớ nên tranh nhau tài sản, chớ nên nghe lời nói của vợ, mà quên mất nghĩa cốt nhục. Đạo làm vợ chồng, phải cùng kính yêu nhau, dốc lòng ân nghĩa. Chồng phải sửa sang trong khuê môn cho tề chỉnh, lấy đức hạnh làm nêu; không được say đắm tửu sắc. Vợ phải kính thờ cha mẹ chồng, và không được trái lời dạy bảo của chồng. Không được giông dỡ ghen tuông, và không nên chán cảnh nghèo nàn, đến nỗi bỏ nhau, để hại đường phong hóa. Làm bạn bè phải giữ chữ tín, rèn nhau bằng điều thiện, khuyên nhau lấy điều hay; không nên dắt díu vào đường bất chính; và khi thấy không có lợi, liền bỏ nhau, để đến nỗi làm mất nghĩa bạn bè. Làm cha mẹ phải sửa mình, để ngay gia đình; lấy nghĩa lý dạy con trai, lấy nữ công nữ tắc dạy con gái, không được say mê tửu sắc, đánh bạc đánh cờ, cùng là những sự chơi bời dâm đã ng, để hại đến phong hóa. Nếu cha mẹ không biết dạy dỗ con, con trai con gái không chịu nghe lời dạy bảo, thì cho phép các viên phường, xã, thôn trưởng được tố giác với các nha môn; nếu lỗi nhỏ thì trừng phạt bằng roi vọt, mà lỗi lớn thì chiếu phép trị tội. Làm thày và học trò, phải đều hết đạo, thày thì trước phải ngay mình, để làm gương mẫu cho học trò. Học trò thì phải tôn kính thày, chăm chỉ về đường thực học, lấy đức hạnh làm gốc; không được chỉ chăm chú về mạt nghệ, và khinh nhờn thày, cũng là bỏ mất lễ phép, hay nhờ người khác thi gian, mong may mắn được công danh. Ai trái luật sẽ bị tội. Làm người gia trưởng, phải tự mình theo đúng lễ phép để tề chỉnh gia đình; khiến mọi người trong một nhà, đều trông gương mà bắt chước. Không nên tự mình bỏ mất lễ phép, đầu têu gay ra mối bại hoại, và sớm tối phải dạy bảo con em, khiến cho chúng chăm chỉ việc nhà, chớ lười biếng chân tay, chớ làm những điều gian phi để mắc vào tội lệ. Nếu gia trưởng không dạy bảo được con em, sẽ bị khép tội. Làm con em phải tôn kính cha anh, có rượu có thịt thì phải nhường người trên hưởng; thấy đội nặng gánh đày thì phải đương lấy sự khó nhọc; không được cạy mình giàu sang, mà cùng cha anh ngồi một chiếu, cùng ăn một mâm, để mất đạo luân thường. Làm đàn bà phải lấy thuận tùng làm cốt, kính thờ cha chồng, hòa thuận anh em, không được cạy cha mẹ mình giàu sang mà kiêu ngạo với nhà chồng; lên giọng nói to, tự ý ghen tuông dữ dội, hơi một chút xích mích là đòi ly dị. Khi có điều tội lỗi, cha mẹ và chồng răn bảo thì phải nghe mà đổi lỗi, không được càng sinh lòng giận cãi lại và nói tệ lại; hoặc là chạy trốn ra đường xá, hoặc là ẩn náu ở xóm giềng, dần dà sinh ra thói dâm đã ng, bại hoại mất đạo đàn bà. Ai trái lệnh này thì cho phép phường, xã, thôn trưởng được dẫn trình tại nha môn hữu trách, để trị tội một cách xứng đáng. Đàn bà ở góa không được nuôi trai trẻ tuổi, ngoài mặt thì giả làm ơn nuôi nấng mà bề trong thì ngầm thói dâm ô. Ai trái lệnh thì cho phép phường, xã, thôn trưởng được dẫn trình lên quan sở tại chiếu luật trị tội. Đàn bà không may chồng chết hoặc có các con của vợ khác, phải yêu thương như con mình, không được đem lòng thiên tư, lấy hết của cải và dồ vật, ngầm sinh ra ngoại tình, làm trái lẽ và sai luân thường để bại hoại phong hóa. Ai trái lệnh thì cho phép người trưởng tộc và phường, xã, thôn trưởng bắt giải đến quan ở nha môn hữu trách để trị tội. Đàn bà không may chồng chết sớm, chưa có con cái, thì phải ở nhà chồng, chôn cất và tế lễ cho đúng phép, không được đương lúc còn tang mà ôm lấy của cải đồ vật về nhà cha mẹ mình. Ai trái lệnh này thì cho phép thân thích được tố cáo đến quan, để trị tội nặng. Ở trong hương đảng, phải lớn nhỏ có trật tự, lấy điều lễ nghĩa liêm xỉ cùng dạy bảo nhau. Người là bậc tôn trưởng, phải yêu đương bậc ty ấu, không được cậy mình lớn tuổi mà sinh lòng khinh dẻ. Người là bậc ty ấu, phải kính trọng bậc tôn trưởng, không được cậy mình hào phú, mà đem lòng kiêu căng. Trong những tháng có việc tế lễ yếm ẩm, phải kính nhường bậc tôn trưởng, không được vì cớ chén rượu miếng thịt, cùng sinh ra hiềm khích, để trái mất nghĩa hương đảng (làng xóm). Ở trong hương đảng, thấy việc lợi phải mở mang, như bờ ruộng và địa giới, ngòi nước cống nước cùng là các nơi đường xá đê điều và ngòi lạch, phải bồi đắp cho bền chặt, để đề phòng khi hạn hán hay lụt lội. Chỗ nào nên khơi thì khơi, nên lấp thì lấp, phải hiệp sức mà làm. Thấy việc hại phải bài trừ, như giống thú hại mùa màng, thú dữ hại người, phải trình ngay nha môn sở tại, hiệp sức mà trừ bỏ những điều hại đó. Còn như trộm giặc cùng là bọn hào cường ngang hoạnh, thì phải trình ngay nha môn sở tại để khu xử cho xứng đáng, không được dấu giếm và dung túng để hại lương dân. Ở trong hương đảng, không được cậy nhà giàu thế mạnh khinh nhờn xãtrưởng riêng, nhận các đơn kiện mà tự mình xử đoán và không được lừa dối ức hiếp kẻ cô quả, rông rỡ đánh chửi người ta. Làng nào có những hạng người nói trên, cho phép xã thôn trưởng, dẫn trình đến quan để trị tội. Làm chức hương trưởng, ở trong làng hoặc có việc gì không công bằng, phải công tâm làm gương mẫu cho dân, và giảng giải phải trái để điều hòa việc ấy; chứ không được tự mình xúi dục, khiến cho đôi bên kiện cáo nhau; rồi lại đứng đầu bày mưu trong việc đó; cùng là tự mình lập khoán ước riêng, hiếp chóc lấy của cải đồ vật, bắt hiếp phải bán ruộng ao nhà đất, để cho người ta bị khánh kiệt gia sản. Hoặc là cấm đoán sự dùng nước lửa, và không cho được dự trong hương ẩm, mọi điều kể trên đều trái với pháp luật. Ai trái lệnh này, cho phép được tố cáo ở nha môn hữu trách, bắt mà trị tội. Trong hương đảng hoặc có những việc hộ hôn, điền thổ và nhân mạng, cùng là các việc tạp tụng khác, đã có các nha môn hữu trách, theo phép công mà xử. Những quan viên, hào trưởng và binh lính ở những xãthôn ấy, không được riêng đặt ra nha môn, đòi hỏi bắt bớ và xét xử những việc kiện nói trên, rồi không cứ trái phải, hiếp người lấy của, để kẻ đương sự bị khuynh gia bại sản. Ai trái lệnh này sẽ bị tội. Ở trong hương đảng, đàn ông không được buông thói hung hãn, vô cớ đánh người; đàn bà không được chua ngoa lớn tiếng chửi rủa xóm làng; cùng là không được chơi bời dâm đã ng, trộm cắp của cải và đồ vật. Làng nào có những hạng người như thế, thì cho phép xãthôn trưởng, bắt đem trình quan để trị tội. ở trong hương thôn, nên giữ lòng công bằng, phân biệt trái phải, ngay gian; nếu có việc thưa kiện gọi ra làm chứng tá, phải lấy sự thực mà khai, không được ngầm ăn đút lót, về bè kẻ gian hại người ngay. Ai trái lệnh này phải chịu tội (Làm chứng gian như kẻ có tội). Ở làng xóm gần với đường xá, nơi nào đi lại nên làm nhà làm quán, thì tùy tiện mà làm để tiện cho hành khách đi lại ngủ trọ. Cùng là những nhà ở cạnh đường, trong khoảng đêm hôm thấy có người đến xin ngủ trọ, không được chối từ. Người nhà ấy cùng với người xóm giềng phải thẩm xét rõ ràng, để đề phòng kẻ gian phi. Nếu thấy đàn bà đến ngủ trọ, ắt phải cẩn thận giữ gìn, không được tự mình nẩy ra lòng dâm tà, hay là dung túng cho thân thích mọi người, cố cưỡng mà hãm hiếp, để mắc vào tội lệ. Đường xá ở làng xóm, đã có giới hạn; nếu có kẻ nào xâm chiếm làm của riêng, để đến nỗi đường đi hẹp lại, thì cho phép xã thôn trưởng khám xét mà đo, để cho đường xá được như giới hạn cũ, cho tiện sự đi lại. Nếu cố cưỡng không chịu, cho phép bắt trình quan để luận tội. Làng mạc đã có khe ngòi, thì phải khai thông để cho thuyền bè đi lại. Nếu có nơi nào úng tắc, lại phải khơi đào ra cho thông đường thủy, không được tự tiện xâm chiếm ngầm làm ao hồ của mình, để mắc vào tội lệ. Những nơi núi, rừng, sông, chầm, khe, ngòi, đập cá, không phải là sở hữu của ai được quản nghiệp riêng, thì phải để làm của công chung; không được chiếm làm sở hữu riêng, không cho mọi người được hưởng tiện lợi. Xã thôn trưởng phải chọn những con em nhà lương thiện, biết chữ nghĩa, có tài năng, tuổi đã đúng lệ, dân làng đều tin cạy mà bầu cho làm, không được vì cớ tiền tài rượu thịt, mà bầu cho người không xứng đáng. Hoặc là kết giao làm bè đẳng lập riêng ra hàng thôn hàng giáp, để cùng nhau sinh ra hiềm thù. Ai trái lệnh này sẽ phải tội. Làm người phải siêng năng sinh nghiệp, khiến cho cơm áo có thừa được để thừa cha mẹ nuôi vợ con đóng góp đủ thuế má và công dịch. Không được lười biếng chân tay để đến nỗi nghèo khó, rông rỡ, sinh ra trộm cướp rồi mắc vào tội lệ. Làm người nên lấy kiệm ước làm đầu; nếu có những sự lễ bái như lễ kỳ phúc (cầu phúc), lễ giá thú, lễ tang tế, thì cỗ bàn ăn uống cần làm cho vừa phải, không nên đua nhau xa xỉ; nhà giàu muốn làm được hơn người, nhà nghèo lại muốn cố mà theo kịp; đến nỗi phải bán điền sản, hại cả sinh kế tự mình gây nỗi nghèo nàn. Làm người phải theo lẽ phải, giữ đạo thường, không nên ủy thác nơi quyền thế, ra vào cửa công, mách lẻo điều hay dở của người khác, chạy chọt nhờ cạy việc kiện cáo, để lấy tiền của người đương sự. Ai trái lệnh này sẽ phải tội. Làm người phải noi chính đạo (đường chinh) chớ làm điều gian hiểm; như những việc tranh của và đánh người, cố ý đem những người già yếu, ốm đau và đàn bà có thai, âm mưu làm cho đến chết, cùng là làm đọa thai rồi đổ vạ cho người khác; song những tình trạng gian trá, rút cục chẳng che đậy được, đến nỗi buộc mình vào tội chết. Làm người phải giữ đạo cương thường, hoặc được mê hoặc về dị đoan. Người nào đến tuổi già, đã được có sắc chỉ, lệnh chỉ, hay gia chỉ và khám lệnh, mới được phụng sự hương hỏa ở chùa nhà (chùa làng mình). Còn ngoài ra, đàn ông, đàn bà và con trai con gái không được thí phát làm tăng ni, trốn tránh ở chùa thờ phật, cùng là nghe theo bọn đồng cốt phù thủy, trốn thuế má và dao dịch (việc công dịch); ngầm làm sự dâm ác, phương hại đến phong hóa. Làng nào có hạng người nói trên, nhất luật bắt phải trở về làng, để điều lo kế sinh nhai. Nếu xãthôn trưởng nào vì tình mà dung túng, không dẫn trình lên quan, thì nhất thể trị tội. Làm người không được sui dục kiện tụng, lấy trái làm phải, đổi trắng, thay đen; muốn toại mưu gian, để ngầm ăn của đút. Song sự gian tỏ lộ, tự mình mắc vào tội nặng. Lại có kẻ giả làm họ hàng, tự ra dự việc kiện, được thể mà sui bẩy nguyên bị. Những hạng như thế, thật là đáng ghét; ai có tật xấu ấy nên sửa đổi đi. Nếu không sửa lỗi, ắt là phải tội. Những việc thưa kiện, là bởi sự bất đắc dĩ; không nên đem lòng thù oán, vu hãm người lương thiện; đem cái lỗi nhỏ của người ta, mà thêu dệt vào đơn kiện, rồi cáo tố bậy lên quan. Lại có kẻ vì thù riêng, làm thơ nặc danh, cùng là làm thơ và bài hát ngụ ý châm biếm, gián ở cầu và ở đường, đê chực đổ vạ cho người, rút cục tự mình mắc vào tội nặng. Làm người buôn bán, phải tùy theo giá, buôn nói có bán nói không; không được biến đổi thăng đấu, cân lượng, thước tấc, để mong được lợi phi nghĩa. Đi thuyền thì phải kén chọn bến sông, đi đường thì phải kén nơi lưu trú, không được giả làm khách buôn bán, cùng nhau họp đồ đảng, thừa cơ dình khóe, ngầm đi trộm cướp. Ai trái lệnh này, cho phép những người biết đích bọn gian, bắt đem nộp quan nha sở tại trị tội. Làm xóm có cầu cống đường xá, bị đổ nát hư hỏng, phải tùy tiện cùng nhau sửa chữa và bồi đắp, để tiện sự đi lại; không được bỏ mặc, để trở ngại sự giao thông. Ai trái lệnh này sẽ phải tội. Những sách kinh sử, tử, tập cùng là các văn chương có bổ ích cho sự dạy đời, mới được làm ấn bản mà thông hành. Còn như những sách đạo chích đều là sách dị đoan tà thuyết, cùng là những truyện bằng quốc âm và thi ca đầy những lời dâm đã ng, thì không được khắc bản rồi in ra mà bán để tổn hại phong hóa. Làm chức lại viên phải giữ bổn phận, làm sổ sách thì phải răn sự điên đảo, thừa hành công việc thì phải răn sự lười biếng; không được tham vàng bỏ ngãi, chỉ chăm chú về tiền tài, dùng trí khôn múa ngòi bút (làm văn án điên đảo) chẳng biết liêm xỉ là gì. Ai trái lệnh này, thì quan chức ở nha môn hữu trách được phép trừng trị; nếu lỗi nhỏ thì được trách phạt bằng roi vọt, lỗi lớn thì trình lên để trị tội. Những lăng miếu các đời trước cùng là đền thờ và mồ mả các bậc công thần, không được chặt đẵn tre gỗ, thả rông trâu, dê dày xéo phá hại. Vả lại phần mộ người xưa, không ai thừa nhận, phải giữ dấu vết cũ, không được cày bừa mà phá đi. Ai dám cố ý trái lệnh này, sẽ bị bắt trình quan trị tội. Các chùa thờ Phật, đều là việc vô ích. Nay trừ ra những chùa cổ đã có trong sổ; còn hương thôn nào nguyên trước không có chùa thờ phật, thì không được tự dân làm chùa mới, làm phiền dân và phí tiền. Ai trái lệnh này sẽ phải tội. Làm người tên phải có họ (thí dụ như Lê, Nguyễn,…) để phân biệt tôn phái; cấm không được mạo xưng là con cháu nhà thế gia triều đại trước; hay là giả làm ra những bằng chứng về tôn phái, mạo ra chức thư, lấy người chứng ta bậy, để nhận càn điền thổ của người khác. Ai trái lệnh này sẽ bị tội. Làm người sống chết có số, sự họa phúc tự mình mà ra; không nên nghe tin những bọn đồng cốt và thày bói bịa đặt ra truyện quỷ thần huyền ảo. Vả lại đàn ông, đàn bà không được làm đồng cốt, nói càn những việc họa phúc, để làm mê hoặc người đời. Ai tráo lệnh này, cho phép xãthôn trưởng bắt giải lên quan nha môn phụ trách xử đoán. Nếu xãtrưởng vì tình riêng mà dung túng, thì đều nhất thể trị tội. Những nhà có tang hay gặp lễ tết Trung nguyên (rằm tháng bẩy) theo sách gia lễ; chứ không được muợn cớ phúng viếng, mà bày đặt ra hát xướng, để bỏ cái lệ tục, hồi phục lại thuần phong (phong tục hay đời trước để lại). Nếu ai dám cố ý trái phạm lệnh này, thì sẽ bị khép vào tội nặng. Những hạng như quân, dân và gia nô, nếu gặp các quan viên, phải đem lòng kính sợ; đương ngồi thì phải đứng dậy, đương đi thì phải đảo bước; chứ không được bảo không phải là quan cai quản, hay là gia chủ của mình, mà có bụng khinh nhờn. Kẻ nào trái lệnh này sẽ chiếu luật trị tội. Quan viên và quân dân ở các trấn, không được lừa dối dỗ người đem bán ra nước khác, để lấy tiền của. Ai trái lệnh này, thì cho phép chứng kiến bết việc này, bắt kẻ phạm phép đem trình quan để trị tội. Vợ chồng là cái gốc luân thường, lấy vợ gả chòng phải theo lễ nghĩa; không được so kè giàu nghèo, đòi nhiều tiền của. Khiu gả bán phải phân biệt họ hàng và nòi giống, không được tham sự giàu nghèo, mà khiến cho hôn giá loạn luân thường; cùng là không được không có sinh lễ mà cẩu họp, để đến nỗi giống như giống cầm thú. Vô luận ở làng mình hay làng khác, đều cho phép thi tiền “lan nhai” là một quan tiền cổ và một vò rượu, quan viên và binh lính ở xãthôn nhà gái, không được viện cớ là lấy chồng ở làng khác, mà đòi tiền “lai nhai” quá lạng và tiền tiễn tống; hay là hùa nhau bắt hiếp những phụ nữ ở goá, lấy về làm vợ làm hầu. Ai trái lệnh này sẽ bị khép tội. Họ hàng ở trong hương đảng, có ai cùng khốn, nên giúp đỡ; có ai đau ốm, nên chăm sóc; và khi có tang táng, nên giúp sức trông nom, rồi tuỳ nhà tang giàu hay nghèo, chứ không được yêu sách cỗ bàn và cũng nên chấp nệ về tục cũ và nợ miệng, mà bắt hiếp nhà đương sự phải bán vợ con điền thổ, để khánh kiệt gia tài hoặc là nghèo khó, phiêu lưu. Khi có tai nạn, nước lửa hay trộm cướp, phải hết sức cứu giúp, không được ngồi điềm nhiên mà nhìn, để mất các phong tục trung hậu. Ai trái lệnh này sẽ phải tội. Dân cư phải có xóm giềng, nên cùng nhau thân yếu hoà thuận, không được có lòng chia rẽ nọ kia; lại lấy cớ là ruộng liền bờ mà đòi tiền nêu mốc; hoặc là viện cớ ngăn nước, tháo nước, mà cưỡng gặt lúa của người, để giữ cho hậu dân tục. Ai trái lệnh này sẽ phải tội. Ở phường xã thôn nào, phải giữ lòng nay thẳng, không được rông rỡ tham lam. Như là những thứ lợn gà, thóc lúa, củi măng và hoa quả, nếu không phải của mình, thì không được lấy trộm để mắc vào tội lệ. Các điều răn bảo kể trên, các quan ở nha môn hữu trách phải tuân hành cho đúng, các quan hai ty Thừa và Hiến thời thường phải đốc trách các quan phủ huyện và châu, chuyển giao cho các phường xãthôn trưởng ở trong thuộc hạ, cứ những ngày tết Nguyên Đán, kỳ phúc và xãđiền, họp tập kết đàn ông và đàn bà, già trẻ lớn bé, giảng đi giảng lại những điều kể trên và dẫn dụ cho rõ ràng, khiến cho dân chúng nam nữ ngu si, và con trẻ còn thơ ấu, đều được tai nghe mắt thấy, biết hết mọi điều khuyên răn, cùng đưa nhau theo phong tục tốt, để cùng hưởng phúc thái bình. Nếu trẻ nào dám bỏ ngơ mà không tuân lệnh, thì đều nhất luật trị tội. Phụ lục 2: Niên biểu các đời vua Lê 1. Lê Trang Tông (1533 - 1548), huý là Duy Ninh, con vua Chiêu Tông (1516 - 1526), cháu Lê Thánh Tông (1460 - 1497), lên ngôi tại Ai Lao, hiệu là Nguyên Hoà, mất năm 31 tuổi, miếu hiệu là Trang Tông. 2. Lê Trung Tông (1548 - 1556), huý là Huyên, con trơưởng vua Lê Trang Tông, niên hiệu là Thiệu Bình, mất năm 22 tuổi, miếu hiệu là Trung Tông. 3. Lê Anh Tông (1556 - 1573), huý là Duy Bang, cháu Lê Thái Tổ, vua Trung Tông mất, Trịnh Kiểm cho người tìm lập vua, sau bị Trịnh Tùng giết năm 42 tuổi. Lên ngôi đặt niên hiệu là Thiên Hữu (1557), Chính Trị (1558 - 1571) và Hồng Phúc (1571 - 1573). Sau khi mất được tôn miếu hiệu là Anh Tông. 4. Lê Thế Tông (1573 - 1599), huý là Duy Đàm, con thứ 5 vua Lê Anh Tông, niên hiệu: Gia Thái (1573 - 1577) và Quang Hưng (1578 - 1599), mất năm 33 tuổi, miếu hiệu là Thế Tông. 5. Lê Kính Tông (1600- 1619), huý là Duy Tân, con thứ vua Lê Thế Tông, niên hiệu: Thận Đức (1600) và Hoằng Định (1601 - 1619), mất năm 32 tuổi, miếu hiệu là Kính Tông. 6. Lê Thần Tông (1619 - 1643) và (1649 - 1662), huý là Lê Duy Kỳ, con trưởng vua Lê Kính Tông, niên hiệu: Vĩnh Tộ (1620 - 1628), Đức Long (1629 - 1634), Dương Hoà (1635 - 1643), Khánh Đức (1649 - 1652), Thịnh Đức (1653 - 1657), Vĩnh Thọ (1653 - 1661), Vạn Khánh (1662). Vua mất năm 56 tuổi, miếu hiệu là Thần Tông. 7. Lê Chân Tông (1643 - 1649), huý là Duy Hựu, con trưởng vua Lê Thần Tông, niên hiệu Phúc Thái, mất năm 20 tuổi, miếu hiệu là Chân Tông. 8. Lê Huyền Tông (1663 - 1671), huý là Duy Vũ, con thứ hai của vua Lê Thần Tông, em vua Lê Chân Tông, niên hiệu là Cảnh Trị (1663 - 1671), mất năm 18 tuổi, miếu hiệu là Huyền Tông. 9. Lê Gia Tông (1672 - 1675), huý là Gia Hội, con thứ ba vua Lê Thần Tông, niên hiệu Dương Đức (1672 - 1673) và Đức Nguyên (1674 - 1675), mất năm 15 tuổi, miếu hiệu là Gia Tông. 10. Lê Hy Tông (1676 - 1705), huý là Duy Hợp, con thứ tư vua Lê Thần Tông, niên hiệu Vĩnh Trị (1676 - 1680) và Chính Hoà (1680 - 1705). ở ngôi đơợc 29 năm, nhường ngôi cho thái tử Duy Đường, lên làm Thái thượng hoàng. 11. Lê Dụ Tông (1706 - 1729), huý là Duy Đường, con trưởng vua Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1706 - 1719) và Bảo Thái (1720 - 1729). ở ngôi được 24 năm, nhường ngôi cho Thái tử Duy Phường, lên làm Thái thượng hoàng. 12. Lê Duy Phường (1729 - 1732), huý là Duy Phường, con thứ của vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Khánh (1729 - 1732), chết năm 1732. 13. Lê Thuần Tông (1732 - 1735), huý là Duy Tường, con trưởng của Lê Dụ Tông, niên hiệu là Long Đức (1732 - 1735), mất năm 37 tuổi, miếu hiệu là Thần Tông. 14. Lê ý Tông (1735 - 1740), huý là Duy Thìn, là em vua Lê Thuần Tông, niên hiệu Vĩnh Hựu (1735 - 1740), mất năm 41 tuổi, miếu hiệu là ý Tông. 15. Lê Hiển Tông (1740 - 1786), huý là Duy Diêu, con trưởng của Lê Thuần Tông, niên hiệu Cảnh Hơng (1740 - 1786) mất năm 70 tuổi, miếu hiệu là Hiển Tông. 16. Lê Chiêu Thống (1787 - 1788), huý là Duy Khiêm, con trưởng Hoàng thái tử Duy Vĩ, cháu đích tôn của Lê Hiển Tông, niên hiệu Chiêu Thống (1787 - 1788), mất năm 28 tuổi tại Yên Kinh, Trung Quốc năm Quý Sửu (1793). Phụ lục 3: Niên biểu các đời chúa trịnh 1. Bình An vương Trịnh Tùng (1570 - 1623), con thứ hai của Thái sư Trịnh Kiểm, phong làm Thái uý trưởng quốc công năm 1571, Đô nguyên suý Tổng quốc chính, Thượng phụ Bình an vương năm 1599, mất năm Quý Hợi (1623) được tôn là Thành tổ Triết Vương. 2. Thanh Đô vương Trịnh Tráng (1623 - 1653), là con trưởng của Trịnh Tùng, phong làm Thái uý Thanh quốc công năm 1623, Nguyên suý Tổng quốc chính Thanh Đô vương (1623), mất được suy tôn là Văn tổ Nghị Vương. 3. Tây vương Trịnh Tạc (1653 - 1682), là con trưởng Trịnh Tráng, phong Thái uý Tây quốc công (1645), Nguyên suý trưởng quốc chính Tây Định Vương (1652), Thượng sư Tây Vương (1659), Đại nguyên suý thượng sư thái phụ Tây Vương (1668), mất được suy tôn là Hoằng tổ Dương Vương. 4. Định vương Trịnh Căn (1682 - 1709), là con trưởng Trịnh Tạc, phong Nguyên suý Điển quốc chính Định Nam Vương (1674), Định vương (1682), Đại nguyên suý tổng quốc chính Thượng thánh phụ Sư Định Vương (1684), mất được suy tôn là Chiêu tổ Khang Vương. 5. An Đô vương Trịnh Cương (1709 - 1729), là tằng tôn của Trịnh Căn, phong Tiết chế An quận Công (1703), An Đô Vương (1709), Đại nguyên suý Tổng quốc chính Thượng sư An Vương (1714), chết được truiy tôn là Hy tổ Nhân Vương. 6. Uy Nam vương Trịnh Giang (1729 - 1740), là con trưởng Trịnh Cương, phong Tiết chế Uy quốc Công (1727), Uy Nam Vương (1729), Thái Thượng Vương (1740), mất được truy tôn là Dụ tổ Thuận Vương. 7. Minh Đô vương Trịnh Doanh (1740 - 1767), con thứ Trịnh Cương, phong làm Minh Đô Vương (1740), Thượng sư Minh Vương (1742), Thương sư Thượng phụ Minh Vương (1755, mất tôn là Nghị tổ An Vương. 8. Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm (1767 - 1782), là con trưởng của Trịnh Doanh, phong Tiết chế Thái uý, Tĩnh quốc Công (1758), Nguyên suý Tĩnh Đô Vương (1767), Thượng sư Tĩnh Vương (1769), mất được tôn là Thánh tổ Thịnh Vương. 9. Điện Đô vương Trịnh Cán (1782), là con út của Trịnh Sâm, phong làm Tôn Vương được hai tháng sau bị phế. 10. Đoan Nam vương Trịnh Khải (1782 - 1786), là con trưởng của Trịnh Sâm, phong là Đoan Nam Vương, sau tự sát khi bị quân Tây Sơn bắt, không có miếu hiệu. 11. An Đô vương Trịnh Bồng (1787 - 1788). Trịnh Bồng chỉ làm chúa được mấy tháng, bị Nguyễn Hữu Chỉnh đánh cho thua, sự nghiệp không có gì. Phụ lục 4: Các loại tiền thời Lê - Trịnh (theo nguồn tư liệu của Đỗ Văn Ninh) 35 - Nguyên Hoà thông bảo 36 - Vĩnh Thọ thông bảo 37 - Vĩnh Thịnh thông bảo 38 - Chính Hoà thông bảo 39 - Vĩnh Thịnh thông bảo 40 - Bảo Thái thông bảo 41- Cảnh Hừng thông bảo 42 - Cảnh Hưng trung bảo 43 - Cảnh Hưng trí bảo 44 - Cảnh Hưng vĩnh bảo 45 - Cảnh Hưng thái bảo 46 - Cảnh Hưng cự bảo 47 - Cảnh Hưng trọng bảo 48 - Cảnh Hưng huyền bảo 50 - Cảnh Hưng chính bảo 51 - Cảnh Hưng nội bảo 52 - Cảnh Hưng dụng bảo 53 - Cảnh Hưng thông bảo 54 - Cảnh hưng thông bảo 55 - Cảnh Hưng thông bảo 56 - Cảnh Hưng thông bảo 57 - Cảnh Hưng thông bảo 58 - Cảnh Hưng thông bảo 59 - Cảnh Hưng thông bảo 60 - Cảnh Hưng thông bảo 61 - Cảnh Hưng thông bảo 62 - Cảnh Hưng thông bảo 63 - Cảnh Hưng thông bảo 64 - Cảnh Hưng thông bảo 65 - Cảnh Hưng thông bảo 66 - Cảnh Hưng thông bảo 67 - Cảnh Hưng thông bảo 68 - Cảnh Hưng thông bảo 69 - Cảnh Hưng thông bảo 70 - Cảnh Hưng 71 - Cảnh Hưng cự bảo 72 - Cảnh Hưng thọ trường 73 - Cảnh Hơng thông bảo 74 - Cảnh Hưng thọ trường 75 - Chiêu Thông thông bảo 76 - Chiêu Thông thông bảo 77 - Chiêu Thông thông bảo 78 - Chiêu Thông thông bảo 80 - Chiêu Thông thông bảo 81 - Chiêu Thông thông bảo 82 - Chiêu Thông thông bảo 83 - Chiêu Thông thông bảo 84 - Chiêu Thông thông bảo 79 - Chiêu Thông thông bảo TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(2005). 2. Phan Huy Chú “Lịch triều hiến chương loại chí”, tập 1, tập 3, tập 4, Nxb Sử học, Hà Nội(1961). 3. Đặng Xuân Bảng “Sử học bị khảo”, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội(1997). 4. Alexander de Rhodes “Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài”, Nxb Uỷ ban đoàn kết tôn giáo thành phố Hồ Chí Minh(1994). 5. Antoshchenko Vladimir "Dòng họ các Chúa Trịnh ở Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII" (bài tham luận trong Hội thảo Việt Nam học), Nxb Thế giới, Hà Nội(2000). 6. Lê Quý Đôn “Vân đài loại ngữ”, Nxb Văn hoá, Hà Nội(1962). 7. Lê Quy Đôn “Phủ biên tạp lục”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(1977). 8. Lê Quý Đôn “Kiến văn tiểu lục”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(1977). 9. Lê Quý Đôn “Đại Việt thông sử”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(1978). 10. Kỷ yếu hội thảo khoa học, Chúa Trịnh - Vị trí và vai trò lịch sử. Nxb Thanh Hoá. 11. Bộ Văn hoá thông tin “Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội”, Hà Nội(2000). 12. Lê Ngô Cát - Phạm Đình Toái “Đại Nam quốc sử diễn ca”, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội(2004). 13. Bùi Hạnh Cẩn "Ý đồ và hoạt động của các giáo sĩ nước ngoài trên đất nước Việt Nam thế kỷ 17 - 18", Nghiên cứu lịch sử, số 2 (189), trang 28 - 40(1978). 14. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hằng “Các triều đại Việt Nam”, Nxb Văn học, Hà Nội(1996). 15. Charilesb Maybon “Những người châu Âu ở nước An Nam”, Nxb Thế giới, Hà Nội(2006). 16. Phan Trần Chúc “Thế kỷ XVIII - Tĩnh đô vương và thời Lê mạt”, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội(2000). 17. Phan Đại Doãn “Làng Việt Nam - Một số vấn đề kinh tế - xã hội”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội(1992). 18. Phan Đại Doãn-Vũ Hồng Quân "Tìm hiểu công cuộc khai hoang lập làng Cống Thuỷ (Ninh Bình) từ cuối thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XIX", Nghiên cứu lịch sử, số 5, trang 33-45(1997). 19. Nguyễn Khắc Đạm "Vai trò của nhà nước về vấn đề khai hoang trong lịch sử Việt Nam", Nghiên cứu lịch sử, số 39, trang 5 - 14(1962). 20. Nguyễn Khắc Đạm "Về vấn đề ruộng công và ruộng tư trong lịch sử Việt Nam", Nghiên cứu lịch sử, số 4 (198), trang 1 - 7(1981). 21. Nguyễn Khắc Đạm “Thành luỹ phố phường và con người Hà Nội trong lịch sử”, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội(2000). 22. Nguyễn Đình Đẩu "Thăng Long dưới mắt người châu Âu từng sống ở Kẻ Chợ (thế kỷ XVIII)", Xưa và Nay, số 96, trang 144(2001). 23. G. Tabule, “Công ty Đông Ấn và Đông Dương”, (Tư liệu dịch) Đại học khoa học xã hội và nhân văn. 24. George Sansom “Lịch sử Nhật Bản” tập 3 (1615-1867), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(1995). 25. Phạm Đình Hổ “Vũ trung tuỳ bút”, Nxb Văn học, Hà Nội(1972). 26. Phạm Xuân Huyên “Sự nghiệp các chúa Trịnh trong lịch sử nước Đại Việt”, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội(1996). 27. Nguyễn Thừa Hỷ “Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII - XVIII –XIX”, Nxb Sử học, Hà Nội(1993). 28. Insun Yu “Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII”, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội(1994). 29. Insun Yu "Cấu trúc của làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và mối quan hệ của nó vời nhà nước Lê sơ", Nghiên cứu lịch sử, số 310, trang 20 - 21(2000). 30. Jean Baptiste Tavernier “Tập du ký mới và kỳ thú về Vương quốc Đàng Ngoài”, Nxb Thế giới, trang 84(2005). 31. Nguyễn Văn Kim “Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam á thế kỷ XV – XVIII”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội(2003). 32. Nguyễn Văn Kiệm “Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt Nam”, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội(2003). 33. Dương Kỵ “Sử học bị khảo”, quyển 1, Nxb Thuận Hóa(1949). 34. Ngô Cao Lãng “Lịch triều tạp kỷ”, tập I, tập I1 Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội (1975). 35. Hoàng Văn Lân, "Quan hệ giữa nhà nước quân chủ tập quyền với làng xã trong thế kỷ XV ở Việt Nam", Nghiên cứu lịch sử, số 3, trang 304(1999). 36. Léôpld Cadiére “Thay đổi trang phục thời Võ Vương hay là sự khủng hoảng về tín ngưỡng vào thế kỷ XVIII”, tập II, Nxb Thuận Hóa, Huế(1996). 37. Li Ta Na “Xứ Đàng Trong: lịch sử kinh tế - xã hội thế kỷ 17 và 18”, Nxb Trẻ, Hà Nội(1999). 38. Bùi Dương Lịch “Lê quý dật sử”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(1987). 39. Ngô Sĩ Liên “Đại Việt sử ký toàn thư”, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(1998). 40. “Lịch sử Việt Nam thời kỳ chế độ phong kiến dân tộc”, Tủ sách Đại học Sư phạm Hà Nội, 1997. 41. Dương Minh (1978), "Lê Anh Tuấn và xãhội Đường Ngoài hồi nửa đầu thế kỷ XVIII", Nghiên cứu lịch sử, số 179, trang 60 - 63. 42. Nguyễn Đăng Na, “Trịnh thị Ngọc phả ký” (bản dịch chép tay lưu tại Phủ Trịnh) 43. Naboru Karashima "Hoạt động thương mại của ấn Độ ở Đông Nam á thời cổ đại và trung đại", Nghiên cứu lịch sử, số 3(280), trang 210(1995). 44. Nguyễn Sĩ Giáp (dịch) “Lê triều chiếu lịnh thiện chính” Nhà in Bình Minh Sài Gòn(1961). 45. Nhà xuất bản Lao động Kỷ yếu hội thảo bộ sách “Chúa Trịnh qua những áng thơ văn”, Hà Nội(2007). 46. Nhà xuất bản Thế giới “Sư tử và Rồng: bốn thế kỷ quan hệ Hà Lan - Việt Nam”, Hà Nội(2008). 47. Đỗ Văn Ninh (1992), “Tiền cổ Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 48. Nguyễn Quang Ngọc “Về một số làng buôn ở Đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XVIII – XIX”, Nxb Đại học Tổng hợp Hà Nội(1986). 49. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) “Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội(1998). 50. Nguyễn Khắc Cần, Nguyễn Ngọc Diệp “Hà Nội Việt Nam”- NXB Văn hóa dân tộc 2000 51. Lê Nguyễn “Xã hội Việt Nam (qua bút ký của người nước ngoài)”, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh(2004). 52. Nguyễn Đức Nghinh "Chợ chùa ở thế kỷ XVII" Nghiên cứu lịch sử, số 4 (187), trang 53 - 64(1979). 53. Nguyễn Đức Nghinh "Về một vụ kiện tranh giành bến đò ở thế kỷ XVIII", Nghiên cứu lịch sử, số 3, trang 73 - 75(1981). 54. Nguyễn Đức Nghinh "Về quy mô làng xãngười Việt ở đồng bằng Bắc Bộ vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX", Nghiên cứu lịch sử, số 1(202), trang 43 - 49(1982). 55. Nguyễn Đức Nghinh "Tư liệu về sở hữu ruộng đất vùng Đồng Quan-Thái Bình(cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX)", Nghiên cứu lịch sử, số 5(270), trang 61 - 64(1993). 56. Nguyễn Đức Nhuệ "Tìm hiểu về tổ chức "Phiên" trong bộ máy nhà nước thời Lê Trung hưng", Nghiên cứu lịch sử, số 5, trang 46-51(1997). 57. Nghiên cứu lịch sử "Hịch của Lê Duy Mật kể tội họ Trịnh", số 168, trang 58 - 60(1968). 58. Nguyễn Danh Phiệt "Suy nghĩ thêm về phong trào nông dân thê kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XIX", Nghiên cứu lịch sử, số 6(301), trang 3 - 8(1998). 59. Ngô Văn Phú "Trịnh Sâm, vị chúa tài hoa, quyết đoán", Văn nghệ trẻ, số 42, trang 32(2006). 60. Vũ Huy Phúc “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(1996). 61. Nguyễn Phan Quang (1971), “Lịch sử Việt Nam (1428 - 1858)”, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 62. Nguyễn Phan Quang - Trương Hữu Quýnh - Nguyễn Cảnh Minh (1977), “Lịch sử Việt Nam (1428 - 1858)”, quyển 2, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 63. Trương Hữu Quýnh "Ruộng đất và phong trào nhà nông dân trong lịch sử chế độ phong kiến nước ta", Nghiên cứu lịch sử, số 4(199), trang 1 - 7(1981). 64. Trương Hữu Quýnh “Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XVI – XVIII”, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(1983). 65. Quốc sử quán triều Nguyễn “Đại Nam thực lục” - Tiền biên, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội(2002). 66. Lê Văn Siêu “Việt Nam văn minh sử cương”, Nxb Thanh niên, Bến Tre(2004). 67. Phạm Văn Sơn “Việt sử tân biên”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội(1999). 68. Sử thần triều Lê, “Lê triều quan chế” , Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội 69. Đặng Việt Thanh "Vấn đề mầm mống tư bản chủ nghĩa dưới thới phong kiến ở Việt Nam", Nghiên cứu lịch sử, số 39, trang 32 - 54(1962). 70. Trịnh Như Tấu “Trịnh gia chính phả” (lưu tại Phủ Trịnh) (1933). 71. Nguyễn Khánh Toàn”Vài nhận xét về thời kỳ từ cuối nhà Lê đến nhà Nguyễn Gia Long”, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội (2003). 72. Cao Huy Thuần, Trần Nam Học, Vĩnh Sính “Từ Đông sang Tây - Tập biên khảo về khoa học xã hội và nhân văn”, Nxb Đà Nẵng(2005). 73. Trịnh Cao Tưởng "Bước đầu tìm hiểu đồ gốm nước ngoài phát hiện ở các thương cảng cổ Việt Nam"(1996), Nghiên cứu lịch sử , số 5, trang 75. 74. Đoàn Trung Truyến “Mầm mống tư bản chủ nghĩa và sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội(1980). 75. Hoàng Anh Tuấn, "Công ty Đông ấn Hà Lan ở Đàng Ngoài(1637 - 1700)", Nghiên cứu lịch sử, tháng 3-2005. 76. Lưu Minh Trị - Hoàng Tùng (chủ biên) “Thăng Long - Hà Nội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội(1999). 77. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội khoa học lịch sử Việt Nam “Phố Hiến - kỷ yếu hội thảo khoa học”, Nxb Sở văn hóa thông tin - thể thao Hải Dương(1994). 78. Nguyễn Công Việt "Về hình dấu của chúa Trịnh Tùng trên một văn bản cổ", Thông báo Hán Nôm, Nxb Khoa học xãhội nhân văn, Hà Nội(1997). 79. Trần Thị Vinh "Một số biện pháp kinh tế - xã hội của nhà Lê - Trịnh với nông dân ở thế kỷ XVIII" Nghiên cứu lịch sử, số 6 (301), trang 37 - 42(1998). 80. Trần Thị Vinh "Thể chế chính quyền nhà nước thời Lê-Trịnh sản phẩm đặc biệt của lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII", Nghiên cứu lịch sử, số 4, trang 21 - 38(2004). 81. Trần Thị Vinh (chủ biên) (2007), “Lịch sử Việt Nam Tập IV thế kỷ XVII-XVIII”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 82. Viện Khoa học xã hội, Viện Nghiên cứu Hán Nôm “Đại Việt sử ký tục biên” (1676 - 1789), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội(1991). 83. Viện nghiên cứu Hán Nôm “Hậu Lê thời sự kỷ lược”, quyển 1, quyển 2, quyển 3, (bản dịch đánh máy), Hà Nội(1986). 84. Viện nghiên cứu Hán Nôm “Lê kỷ “(bản dịch đánh máy), Hà Nội(1986). 85. Viện nghiên cứu Hán Nôm “Lê hoàng triều kỷ” (bản dịch chép tay), Hà Nội(1968). 86. Viện nghiên cứu Hán Nôm “Lê triều Nam Bắc phân tranh trị lục” (bản dịch đánh máy), Hà Nội(1985). 87. Viện nghiên cứu Hán Nôm “Hậu Lê dã lục” (bản dịch đánh máy), Hà Nội(1984). 88. Viện nghiên cứu Hán Nôm “Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục” (bản dịch viết tay), Hà Nội(1976). 89. Viện sử học “Đại Nam thực lục tiền biên”, tập 1, Nxb Sử học, Hà Nội(1962). 90. Viện sử học “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội(1998). 91. Thành Thế Vỹ “Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII - XVIII và đầu thế kỷ XIX”, Nxb Sử học, Hà Nội(1961). 92. William Dampier “Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688”, Nxb Thế giới, Hà Nội(2006). 93. Antoshchenko Vladimir: "Dòng họ các Chúa Trịnh ở Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII" tham luận trong Hội thảo Việt Nam học do Nxb Thế giới xuất bản năm 2000. 94. Phạm Văn Sơn "Lịch sử tân biên" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (1999) 95. Thành Thế Vỹ "Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII - XVIII và đầu thế kỷ XIX”, Nxb Sử học, Hà Nội (1961) 96. Trương Thị Yến: "Bước đầu tìm hiểu về chính sách thương nghiệp của nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII", Nghiên cứu lịch sử, số 4 (187), trang 65 - 67(1979). 97. Trịnh Xuân Tiến "Chúa Trịnh qua những áng thơ văn" gồm: “Khang Vương Trịnh Căn”, Nxb Lao động, Hà Nội (2001); "Nhân Vương Trịnh Cương", 2 tập, Nxb Lao động, Hà Nội (2002); "Ân Vương Trịnh Doanh", Nxb Lao động, Hà Nội (2003); "Linh Vương Trịnh Khải", Nxb Lao động, Hà Nội (2006). 98. Các chiếu, biểu được lưu trong những bản di văn, hội điển do triều Lê - Trịnh biên soạn được lưu ở Viện Hán Nôm. 99. Các địa bạ, gia phả, bi ký và minh chuông thế kỷ XVII- XVIII 100. Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ liên quan đến đề tài. 101. http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/loixua1/loixua10.htm 102. http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/index.html 103. http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=7 104. http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/index.html

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

HỌ TRỊNH VĨNH BẢO- HẢI PHONG

PHÁT HIỆN MỚI VỀ CHUÔNG CHÙA VÂN BẢN, ĐỒ SƠN, HẢI PHÒNG - Đồng Thị Hồng Hoàn