PHÁT HIỆN MỚI VỀ CHUÔNG CHÙA VÂN BẢN, ĐỒ SƠN, HẢI PHÒNG - Đồng Thị Hồng Hoàn
PHÁT HIỆN MỚI VỀ CHUÔNG CHÙA VÂN BẢN, ĐỒ SƠN, HẢI PHÒNG
Đồng Thị Hồng Hoàn
Chuông Vân Bản, Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng, là quả chuông đẹp và có giá trị nhất hiện đang lưu giữ và trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đã có nhiều ý kiến khác nhau về chuông này, nhưng theo tài liệu ở Viện Hán Nôm: “Chuông Vân Bản được ngư dân vớt năm 1958 ở bãi biển Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng”. Bài minh văn bằng chữ Hán khắc trên chuông gồm 16 cột, 250 chữ, chữ thể hành (ô 1:6 cột; ô 2: 10 cột); Chuông Vân Bản được nhiều nhà nghiên cứu uy tín như Trần Huy Bá, Đào Duy Anh… quan tâm, nghiên cứu, đọc và dịch. Tuy nhiên đây là chuông cổ, có niên đại sớm, bài minh trên chuông nhiều chỗ bị mờ rất khó đọc. Bản rập minh văn trên chuông Vân Bản, hiện đang lưu ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (ký hiêu tr 1).
Toàn bộ những chữ trên bài minh không cho biết chuông được đúc vào thời điểm nào? Vì vậy cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về niên đại của chuông. Sau đây là lược dẫn ý kiến của một số nhà nghiên cứu đã tìm hiểu chuông chùa Vân Bản, về niên đại và ý nghĩa bài minh văn trên chuông:
• Trong báo Tổ Quốc số 3 trang 26-27, Tác giả Trần Huy Bá đã cho rằng quả chuông có niên đai năm 1076, do căn cư vào chữ Binh (có thể là Bính Thìn hoặc Bính Tuất) còn sót lại ở dưới quả chuông.
• Năm 1970, Đào Duy Anh, tạp chí “Nghiên cứu lịch sử số 13”, tháng 9-10, trang 45,46) và năm 1975, trong bài “Chữ Nôm nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến” Hà Nội tr 12-14), tác giả nhận định: khi tìm thấy quả chuông có hai chữ Hướng Tâm và Đại Ác đã có công bổ trợ các tháp chùa nổi tiếng như Báo Thiên 1957, Đồ Sơn 1958… là thời điểm rất khó xác định, có thể là ngay khi chùa vừa xây dựng xong, cũng có thể là sau này, cũng có thể là giữa triều Lý.
• Ngô Đức Thọ dựa vào chữ Bính trong câu: “Bính chí Hoành Sơn vi giới” - Bài “chữ Nam viết kiêng húy và vấn đề niên đại của chuông chùa Vân Bản” (trong”Thông báo Hán Nôm học” 1996, Tr 376-383) có ý kiến: chữ Bính là chữ kiêng húy thời Trần thay cho chữ Nam, do vậy niên đại chuông chùa Vân Bản có thể là thời Trần.
• Trong “Thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam” – Tài liệu Viện Hán Nôm Việt Nam cho rằng: bài văn khắc trên chuông Vân Bản có nhiều câu khó, họ chỉ dịch vắn tắt Được sự giúp đỡ của ông giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, bài minh văn trên chuông Vân Bản đã được rập và sao chụp lại. Bài minh văn khắc trên chuông đã được nhà nghiên cứu chữ Hán Nôm Đỗ Tiến Hợp -Vĩnh Bảo và cụ Thanh Nga – Cát Dài, đọc, phiên âm và sơ bộ dịch. Chúng tôi đã chép lại bài minh văn chuông Vân Bản .
Sau một thời gian, cùng với sự nghiên cứu tích cực của nhà nghiên cứu chữ Hán- Nôm, Đỗ Tiến Hợp ở Vĩnh Bảo và cụ Thanh Nga ở Cát Dài Hải Phòng. Bài minh đã được phiên âm và dịch . Đúng như nhận xét của Viện Hán Nôm, dịch bài minh trên chuông Vân Bản rất khó. Bài minh văn này được khắc vào triều đại Lý Trần nên có nhiều đoạn rất mờ , có 1 số chức quan tước cổ (Lý Trần) khiến người dịch thời nay lúng túng; chưa kể đến đoạn mô tả địa lý khu vực mà vị Cư sĩ Đại Ố, người có công khai sang khu vực Đồ Sơn, khiến dịch giả nếu chưa thuộc địa lý vùng Đồ Sơn cũng dễ bị nhầm. Sau khi khảo sát điền dã và nghiên cứu kỹ lại các bản dịch bài minh văn trên chuông chùa Vân Bản từ trước tới nay, chúng tôi tạm dịch hoàn chỉnh lại nghiên cứu kỹ bài minh văn trên chuông Vân Bản, chúng tôi nhận thấy :
• Vị cư sĩ Đại Ố đã có công lớn trong việc khai sáng núi rừng Đồ Sơn: Ông đã có công tu tạo và công đức cho vùng Đồ Sơn và nhiều vùng quanh khu vực này; Ông đã công đức một khu đất lớn và quan trọng ở khu 1 du lịch Đồ Sơn, địa giới từ chùa Hang đến núi Ngang.
• Nhân vật Tả bộc xạ Tạ Công cung tiến quả chuông Vân Bản là một người giữ chức quan Thượng thư triều Lý-Trần(Tả hữu Bộc Xạ là quan tể tướng - Đặng Xuân Bảng, trong cuốn “Sử học bị khảo”- Viện Sử học và nhà XBVHTT 1997, trang 497-98, phần những quan chế đời Lý: “… Bình chương quân quốc trọng sư, đồng bình chương sự, tả hữu tham tri chính sự, thượng thư sảnh (thượng thư, tả hữu bộc xạ, tả hữu ty lang trung, viên ngoại lang, binh bộ thị lang, hộ bộ thị lang, phán hình viện)…”. Vậy chuông Vân Bản có thể vào cuối thời Lý và đầu thời Trần, thì nhân vật Tả Bộc xạ Tạ Công cũng là một nhân vật quan chức lớn thời Lý Trần đã cung tiến quả chuông Vân Bản này. Ta biết, trên chuông Vân Bản còn 1 chữ Bính, xét triều Lý có thể là Bính Thìn hoặc Bính Tuất. Xét theo sử cũ: năm Bính Thìn, niên hiệu Thuận Thiên thứ 7 (1016) đời Lý Thái Tổ. Năm Bính Tuất 1226, ngày 10 tháng 1, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, kết thúc thời Lý, lập ra Triều Trần. Vậy Bính Tuất 1226, có thể là niên đại của chuông Vân Bản.
Chúng tôi nhận thấy, cần sự nghiên cứu kỹ hơn về chuông Vân Bản và vị cư sĩ Đại Ố, nhân vật Tả Bộc xạ Tạ Công, để nhân dân vùng Đồ Sơn - cụ thể là chùa chiền; những cá nhân và doanh nghiệp đang sống và kinh doanh tại vùng đất này - nơi ông đã có công khai phá và công đức, biết để tưởng nhớ tới công lao của vị cư sĩ Đại Ố.
Hải Phòng 12.2008
Tài liệu tham khảo
1. Huy Bá :”Một quả chuông nằm 700 năm dưới đáy biển”; Báo Tổ Quốc số 3, năm 1963, trang 26-27.
2. Đào Duy Anh : “chữ Nôm nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến” Hànội, 1975, tr 12-14.
3. Duy Anh “Chứng tích xưa nhất về chữ Nôm, một tấm bia thời Lý Cao Tôn” (tạp chí NCLSỬ số 13, tháng 9-10, trang 45,46)
4. Ngô Đức Thọ trong bài “chữ Nam viết kiêng Húy và vấn đề niên đại của chuông chùa Vân Bản”, trong thong báo Hán Nôm học 1997 (Tr 376-383)
5. Đỗ Tiến Hợp, Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng - Bản chép tay chữ Hán nôm, phiên âm và dich bài minh văn chuông Vân Bản.
6. Nguyễn Thanh Nga, Cát Dài, Hải Phòng – Phiên âm và dịch lại minh văn chuông Vân Bản
7. Trịnh Minh Hiên- Bản dịch bài minh chuông Vân Bản viêt tay.
8. Bản chữ Hán trên minh văn chuông Vân Bản – do Đỗ Tiến Hợp và cụ Thanh Nga chép lại .
若
行
僧
向
心
居
士
大
惡
補
助
報
天
睹
古
州
睹
塗
山
睹
舍
利
睹
淘
涇
一
所
為
有
功
左
僕
射
謝
公
奉
恭
進
鍾
一
口
留
於
塗
山
雲
本
字
直
向
心
居
士
大
惡
共
開
創
山
林
下
洞
東
至
边
海
為
界
西
至
边
海
口
頭
為
界 丙
橫
山
為
界
北
至
神
仙
石
北
至
抄
梁
石
為
界
侍
衛
人
勇
首
阮
文
泪
妻
周
氏
二
人
供
養
翁
何
地 宅
一
所
東
近
香
盞
田
西
近
阮
有
戶
舍
周
林
妹
周 氏
二
人
供
養
香
盞
地
一
所
東
近
阮
嘉
西
近
香
盞
地 右
符
僧
向
心
居
士
大
惡
又
告
後
人
有 子
孫
別
人
有
修
德
行
留
為
於
雲
本 字
土
宅
田
地
忌
臘
若
行
僧
向
心 居
士
大
惡
若
留
毀
壞
空
缺
忌
臘
不
得 文
字
若
有
人
之
造
殿
主
契
咍
面 次
一
Nhận xét
Đăng nhận xét