XÂY DỰNG THÁP TƯỜNG LONG LÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ CỦA LÝ GIA ĐỆ TAM ĐẾ(1) TẠI KHU VỰC VEN BIỂN BẮC BỘ CỦA ĐẠI VIỆT Đồng Thị Hồng Hoàn
XÂY DỰNG THÁP
TƯỜNG LONG LÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA, KINH TẾ,
CHÍNH TRỊ CỦA LÝ GIA ĐỆ TAM ĐẾ(1)
TẠI KHU VỰC VEN
BIỂN BẮC BỘ CỦA ĐẠI VIỆT
Đồng Thị Hồng Hoàn
Trước khi vào bài nghiên
cứu của mình, để khách quan tôi xin trích dẫn một bài nghiên cứu của tác giả
nước ngoài có nội dung về vai trò của biển trong lịch sử Việt Nam . Tác giả Charles Wheeler(2)cho
rằng: Các học giả về Việt Nam hiếm có khi nào cứu xét về biển, bất kể là ở Việt
Nam, họ chưa bao giờ quá xa cách với biển; “Có văn hóa duyên hải” trong lịch sử Việt Nam hay không?; Tác giả khác
là Keith Taylor, trong quyển “Birth of
Vietnam” thì lại mô tả rằng: “quyền lực chúa tể” của văn hóa Việt Nam
cổ xưa “phát sinh từ biển”(3).
Như chúng ta biết, chính sử của Đại Việt khó
có thể ghi chép đầy đủ mọi việc của người xưa, chưa kể một nghìn năm Bắc thuộc
với chính sách đồng hóa thâm hiểm, nhiều triều đại Trung Hoa luôn muốn xóa nhòa
tất cả quá khứ lẫn hiện tại của dân tộc Việt.
Một minh chứng hào hùng nhất là nền văn hóa
rực rỡ Đông Sơn của người Việt cổ - tương đương với nhà nước Văn Lang của các
vua Hùng, ngày càng được phát hiện nhiều qua các nghiên cứu khảo cổ học. Chứng
minh nền văn minh Đông Sơn là văn minh sông biển(4).
Nhưng từ trước đến nay lại gần như đã bị xóa nhòa trong sử sách, chỉ còn lưu
lại trong truyền thuyết cùng sự huyễn hoặc đầy hư ảo, khiến nhiều sử gia khi
nói đến thời đại Hùng Vương đều đặt những câu hỏi đầy ngờ vực!
Bằng chúng khác thuyết phục hơn là di tích
khảo cổ Hoàng thành Thăng Long, cho thấy nhiều dấu vết kiến trúc, văn hóa từ
thời Đại La, Lý, Trần, Lê… được phát lộ. Khiến cho nhiều nhà nghiên cứu nhận
thấy một số vấn đề trong quá khứ, được các sử sách chỉ ghi chép quá sơ sài, các
chính sử của Đại Việt từ trước tới nay chỉ ghi chép những điều liên quan và cần
thiết, chủ yếu là để phục vụ các giới chính trị của các triều đại đương nhiệm.
|

May mắn thay, một số sách lưu truyền trong
Phật giáo và một vài cuốn sử Trung Quốc còn ghi lại ít nhiều tư liệu cho thấy:
đạo Phật được truyền vào Việt Nam
khoảng 300 năm trước Công Nguyên (tương đương với Văn hóa Đông Sơn). Và mảnh
đất linh thiêng mà phái đoàn truyền bá Phật pháp của đức vua Asoka đặt chân đến
đầu tiên chính là thành Nê Lê - tức Đồ Sơn ngày nay:
v “Thủy
kinh chú”(5) quyển 37 tờ 6b4 - 6
của Lệ Đạo Nguyên viết: "Bến đò Quan
Tắc xuất phát từ đó, song nó từ phía đông huyện đi qua huyện An Định và Trường
Giang của Bắc Đái. Trong sông, có nơi vua Việt vương đúc thuyền đồng. Khi nước
triều rút, người ta còn thấy dấu vết. Sông lại chảy về phía đông, cách sông có
thành NêLê, người ta bảo là do "vua A - Dục dựng" (Độ Định huyện Bắc
Đái Trường Giang. Giang trung hữu Việt Vương sở đào đồng thuyền, triều thủy
thối thời, nhân hữu kiến chi dã. Kỳ thủy hựu đông lưu, cách thủy hữu NêLê
thành, ngôn A - Dục vương sở trúc dã).
v Sách “Thái
bình hoàn vũ ký” của Nhạc Sử (thời Tống), chép “Có thành NêLê ở đông nam huyện An Định đời Hán”.
v Theo “Giao Châu Ký” của Lưu Hân
Kỳ (viết trong những năm
360 - 420): “Thành Nê Lê ở phía đông nam huyện Định An, cách sông bảy dặm, tháp và
giảng đường do vua A - Dục dựng vẫn còn. Những người đốn hái củi gọi là kim
tượng”. (NêLê thành tại Định An huyện, Đông Nam cách thủy thất lý, A-Dục vương
sở tạo tháp giảng đường thượng tại hữu, thái tân giả vân thị kim tượng).
v Cuốn
“Thiền Uyển Tập Anh(6)” (của soạn giả:
Kim Sơn - Thiền phái Trúc Lâm - Thế kỷ XIV)
có dẫn truyện Đàm Thiên Pháp Sư trả
lời Vua Cao Tổ nhà Tùy rằng: “Cõi Giao
Châu có đường thông sang Thiên Trúc gần hơn ta. Khi Phật giáo chưa du nhập vào
đất Giang Đông ta mà ở cõi ấy đã xây dựng được hơn 20 ngọn Bảo tháp, độ được
hơn 500 tăng sĩ, dịch được 15 bộ kinh rồi. Vì ở bên ấy gần nước Phật hơn ta.
Bấy giờ có các vị Ma-ha-kỳ-vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương và Mâu Bác đến
ở truyền đạo . . . Ngài muốn bố thí một cách bình đẳng, phái chư tăng sang
truyền đạo, nhưng ở đó họ đã có đủ rồi, ta không cần phải sang nữa.”
v Sách “Sử học bị khảo” của Đặng Xuân Bảng ghi
rằng: “Câu Lậu giáp sông, nước
sông đối với (?) An Định chảy vào sông Uất” thì An Định ở phía đông Câu Lậu - đất gần biển mà nước chảy vào sông Uất”. Trong “Từ điển bách khoa địa danh Hải
Phòng” ghi rằng đất Câu Lậu là một phần đất Tiên Lãng, Hải Phòng ngày nay,
còn khu vực Đồ Sơn về địa lý là mảnh đất cuối cùng nhô ra biển Đông ở phia đông
nam mang tên Hải Tần(7) từ
thời Hán (thời bà Lê Chân đến đây lập ra An Biên trang).
v Tác giả
Claude Madroll (Ông có rất nhiều những nghiên cứu về Việt Nam và Đông Nam Á) (trong: Le Tonkin ancien Befeo, XXXVII, 1937, 262-332), căn cứ theo tên
thành Nê Lê, giải thích Nê Lê là bùn đen. Từ đó cho rằng Nê Lê ở vùng Đồ Sơn -
Hải Phòng, bởi vùng này có nhiều bùn đen.
v Trong bài
minh văn trên chuông chùa Vân Bản Đồ Sơn có đoạn: “Khổ hạnh tăng Hướng Tâm cư sĩ Đại Ô, bổ trợ Báo Thiên
đổ, Cổ Xuyên đổ, Đồ Sơn đổ, Xá Lị đổ, Đào, Kênh nhị sở vi hữu công…”, được GS
Nguyễn Tá Nhí – Viện Hán Nôm dịch như sau: “nhà
sư Hướng Tâm và cư sĩ Đại Ô, hai người có công tu bổ tháp Báo Thiên (kinh
đô Thăng Long), tháp Cổ Châu (ở chùa Cổ Châu - hay còn gọi là chùa Dâu, Bắc
Ninh), tháp Đồ Sơn (tháp Tường Long,
Đồ Sơn), tháp Xá Lị(7a)
và hai nơi Kênh, Đào”. Cũng theo GS Nguyễn Tá Nhí: Ba tháp trong bài minh
là ba nổi tiếng thời Lý là: tháp Báo Thiên; tháp Cổ Châu; tháp Đồ Sơn, chúng ta
đều biết, nhưng tháp Xá Lị của Đức Phật Thế Tôn, xuất hiện trong bài minh văn
cổ như chuông chùa Vân Bản là điều hiếm thấy trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
v Trong
“Đồ Sơn bát vịnh(8)” là 8 bài thơ cổ
của tác giả Hoàng Xuân Hoàn, người Đồ Sơn có viết về vua Asoka đã từng đến Đồ
Sơn xây tháp Phật giáo và vào thời điểm đó ngôi tháp đã đổ rồi:



|
Tại khu du
lịch biển Đồ Sơn, Hải Phòng trên núi Mẫu Sơn(9)
hiện vẫn còn dấu tích một ngôi tháp Phật giáo cổ tên là tháp Tường Long(10) được xây dựng vào triều Lý gia đệ
tam đế (Lý Thánh Tông – 1057, triều Lý), Đế Vương thân chinh ngự tới đây, bởi ông
nhìn thấy tầm quan trọng của mảnh đất trấn giữ cửa biển Đông, trong việc phát
triển quốc gia Đại Việt(11).
Chính vì có tầm nhìn sâu rộng mà Lý Thánh Tông mở ra một thời kỳ thái bình, “Phá Tống bình Chiêm” trong lịch sử dân
tộc Việt thời Lý thịnh trị.
|

Có thể chính sự cao minh của các vị tăng sĩ
Ấn Độ xưa (được Asoka cử đi) đã nhận ra thế đất quý ở vùng biển Đồ Sơn, cho nên
họ đã dừng tại nơi này truyền đạo Phật và xây dựng tháp Xá Lị thờ Đức Phật. Trời
đã không phụ lòng tin, khi giúp họ gặp được Chử Đồng Tử(12) (con rể của vua Hùng) - là những người
Việt cổ đầu tiên tiếp thu Phật giáo Ấn Độ còn lưu trong sử sách.
Phật giáo du nhập vào Nêlê (Đồ Sơn), sau đó
lan tỏa sang nhiều vùng đất khác và từng có những thời kỳ phát triển huy hoàng,
đã là quốc giáo triều đại Lý - Trần cường thịnh trong lịch sử phát triển văn
hóa dân tộc Việt.
|


Sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, người Việt không
cam chịu làm nô lệ, mà vùng lên tranh đấu và đôi lần đã giành được độc lập. Nhưng
phải đến vương triều Lý, giang sơn này mới thực sự bền vững và phát triển. Sử
sách còn ghi trong “Chiếu dời đô” của
Lý Công Uẩn, ông thực sự đã “tính kế cho
con cháu muôn đời” trong đó có việc tìm hiểu địa lý phong thủy thế đất, trước
khi có quyết định sáng suốt là rời kinh đô về Đại La(13), một miền đất hứa với: “thế rồng
chầu hổ phục” và đặt kinh đô mới là Thăng Long.
Lý gia đệ tam đế (Lý Thánh Tông), được di
truyền sự thông minh và sắc sảo của cha ông, đặc biệt là được ông cha giáo
dưỡng cẩn thận từ nhỏ(14). Họ
thấy cần thiết phải đào tạo thái tử trẻ tuổi(15)
có thể “Trên thông thiên văn, dưới tường
địa lý”, hiểu biết tường tận về đất nước mình. Bản chất Lý gia đệ tam đế là
người hiếu học, lại trí tuệ hơn người, ông sẵn sàng học tập, rèn ruyện, cảm
nhận và thông hiểu một cách thâm thúy, sâu sắc toàn bộ lãnh thổ quốc gia trước
khi đổi tên là Đại Việt. Lý Thánh Tông vạch chiến lược quy hoạch và phát triển
bền vững từng vùng mền, phù hợp văn hóa, chính trị và kinh tế từng địa phương. Vì
vậy, ông nhận thức được tầm quan trọng ở cửa sông Bạch Đằng, Đa Ngư(16) cửa biển Đại Bàng… (Tên địa danh cổ một
số khu vực ven biển Hải Phòng ngày nay).
|



Nghiên cứu sử sách, Lý gia đệ tam đế hiểu sâu
sắc tại sao Trưng Vương lại giao cho bà Lê Chân chức “Chưởng quản binh quyền nội bộ” và Phạm Đầm người Vĩnh Bảo chức “Thống
chế kiêm Thủy đạo Nguyên soái” trấn ải khu vực Hải Tần (khu vực Hải
Phòng ngày nay); thời kỳ tự chủ Ngô Quyền lại tiếp tục lập Bản doanh tại khu
vực Lương Xâm (nay thuộc quận Hải An, Hải Phòng) giúp Đại Cồ Việt chiến thắng
quân Nam Hán; Lê Hoàn chiến thắng quân Tống… Do vậy, dù nghìn năm đô hộ của
phương Bắc khiến tháp phật giáo của vương triều Mauryan của Adục vương(17) đã đổ nát, Lý Gia đệ tam đế vẫn
quyết định dựng một ngôi tháp thờ Phật và đặt tên là Tường Long. Chính điều này
đã trợ giúp nhà Lý, tạo nên những thời kỳ huy hoàng cho kinh đô và tiếp tục gìn
giữ Thăng Long - dù bị tàn phá của con người và thời gian vẫn bền vững qua
nhiều thế kỷ, lại được phát lộ trước ngàn năm tuổi, để thủ đô Hà Nội chuẩn bị đón
mừng kinh đô Thăng Long tròn tuổi nghìn năm.





|
Đúng như nhà sử học Lê Văn Lan đã nhận xét:
"Lý gia đệ tam đế"- thế thứ
thì lại là đời thứ ba trong số chín vua nhà Lý, nhưng lại là vị hoàng đế tài
danh hàng đầu. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục dẫn sách “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn, cho
biết: Phép hành quân của nước Đại Việt ở thời kỳ Lý Thánh Tông đã được viên
quan nhà Tống bình luận là: "…Nhà
Lý, phía bắc, phá được châu Ung, châu Liêm, phía nam bình được Chiêm Thành,
Chân Lạp, đánh đâu được đấy, thật là có cớ như thế chứ!".
Sự thật cho thấy, sau khi vua thân chinh ngự
giá cho xây dựng tháp Tường Long, đến năm Canh Tý (1060), hai bộ chính sử triều
Lê và triều Nguyễn đều chép: "Châu
mục Lạng châu là Thân Thiện Thái đuổi bắt những kẻ trốn tránh, vượt sang đất
Tống, bắt chỉ huy nhà Tống là Dương Bao Tài đem về. Quân Tống tràn sang xâm lấn
bên ta, nhưng thất bại. Đến lúc này, nhà Tống sai Lại bộ thị Lang là Dư Tĩnh
đến Ung Châu để hội nghị. Vua (Lý Thánh Tông) sai Phí Gia Hựu sang dự hội. Dư
Tĩnh đưa lễ vật hậu hĩ tặng biếu Gia Hựu, nhân đấy đưa thư xin ta trả lại Bảo
Tài cho nhà Tống. Nhưng mà vua không nghe!”. Lý Thánh Tông đã chỉ đạo cho
Lý Thường Kiệt đem quân sang đánh phá các căn cứ nhà Tống, khi họ còn đang
chuẩn bị xâm lược Đại Việt, giúp triều đình nhà Lý có thể phá tan âm mưu xâm
chiếm nước ta của chính quyền nhà Tống.
|



Tiếp theo, giống như vua cha, Lý Thánh Tông tham gia cuộc chiến
tranh chống Chiêm Thành vào năm Kỷ Dậu (1069), ông tỏ ra là người có tấm lòng
hướng thiện và tầm nhìn chiến lược rộng xa hơn các tiền triều, trong công cuộc
mở mang xây dựng nước nhà: ông bắt sống vua Chế Củ "Rudravarman IV",
nhưng không hề chém giết, mà đổi lấy đất ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, và
bắt đến 5 vạn tù nhân Chiêm Thành về Đại Việt để lao động (lao dịch(18) ). Còn các vua tiền triều chỉ cướp
bóc hết của cải và phụ nữ Chiêm Thành - như vua Thái Tông đã giết đến 3 vạn
người (cả vua Sạ Đẩu "Jaya Sinhavarman II") mà chỉ bắt về 5 nghìn tù
binh (có "phu nhân Mỵ Ê").
Chỉ cần theo dõi các bộ chính sử cũng đủ thấy: vị hoàng đế Lý
Thánh Tông là người đã xây dựng nên những công trình tiêu biểu nhất của nền văn
hoá Thăng Long - văn minh Đại Việt. Công
trình khởi đầu phải kể đến là những công trình kiến trúc văn hóa Phật giáo: đó
là Tháp Báo Thiên, Thăng Long (Hà Nội). Năm 1056 -1057, Lý Thánh Tông nhận thấy
chính tại nơi quan trọng nhất ở cơ quan đầu não của nhà nước Đại Việt, dù vua
cha Lý Thái Tông đã xây dựng chùa Một Cột (Diên Hựu(19)), nhưng có lẽ cần phải có vật trấn bằng
một ngôi tháp Phật giáo, vừa để làm yên lòng dân chúng Thăng Long bằng văn hóa
của đạo Phật hiền hòa, lại dễ cảm nhận của Ấn Độ, vừa tỏ rõ sức mạnh kinh tế,
chính trị bằng công trình kiến trúc tầm cỡ, giúp Thăng Long bền vững qua mọi
thời đại. Vì vậy ông đã quyết tâm xây dựng nên báu vật trong “đại tứ khí” của Đại Việt thời thịnh trị
(để yểm trấn mảnh đất Thăng Long), là "cây
cột trụ chống trời giữ yên non sông" (Sơn hà bất động kình thiên trụ -
thơ Phạm Sứ Mạnh, đời Trần).
Song song với việc “Trấn yểm thành Thăng Long” có thể giữ Thăng Long ngàn năm văn hiến
cho tới ngày nay, vị đế vương lại tìm thêm một long mạch khác trên vùng biển
Đông Bắc tổ quốc, đó là trên đỉnh núi Mẫu Sơn (núi Ngọc)(20), Đồ Sơn để biến nơi đây thành nơi tụ
tập hiền tài trợ giúp cho triều Lý – Trần – Lê hưng thịnh, vì vậy mà Lý Thánh
Tông đã quyết tâm xây dựng tháp Phật giáo Tường Long ở Hải Phòng. Thực tế mảnh đất đắc địa Hải Phòng xưa(21), đã không ngừng đóng góp cho triều
Lý những vị quan đắc lực như: võ quan (Đô đốc Hải quân) Ngô Lý Tín ở Tiên Lãng
và (Đô Đài
lang, tả phúc tâm) Đào Lôi ở An Dương; tiếp đến là đô đốc
Hải quân Lý Dương Côn(22) đóng
quân ở Đồ Sơn và Lý Long Tường (hậu duệ nhà Lý thời Trần) đến Đồ Sơn cúng tiến
chuông Vân Bản trước khi quyết định di tản sang đất Cao Ly(23) để trạnh hậu họa diệt vong của nhà
Trần(24). Văn bia chùa Càn
Thiên triều Mạc tại Quần mục, Đồ Sơn có đoạn: “Nơi đây là đất thiêng, khí trời trong sáng, là nơi tụ họp hiền tài;
trên đường tấp nập ngựa xe của những bậc công khanh và các thương gia từ tứ
phương về đây tụ hội.Của cải, hàng hóa đều quy tụ về đây. Thật là “Đệ nhất trời
Nam ”
một danh lam thắng cảnh; là chỗ đặt chân của những bậc anh hùng chốn đại dương”
Lý gia đệ tam đế vẫn không quên quê hương, năm
1066 tại quê hương họ Lý ở Bắc Ninh (thành cổ Luy Lâu), dù biết dòng họ Lý vẫn đang
có thế lực (dòng họ được kết phát), nhưng Lý gia một mặt vẫn củng cố địa vị và
giữ yên bờ cõi: “phá Tồng bình Chiêm”,
mặt khắc (về phong thủy) ông vẫn lo xây dựng ngôi tháp Phật Tích trấn trên núi
Tiên Du, Bắc Ninh để họ Lý mãi vững bền. Phải đến ngày nay ta mới thấy hết sự
cao minh của những vị vua Lý, khi thời đại chúng ta những tưởng nhà Lý đã bị
nhà Trần diệt vong, thế nhưng thật bất ngờ họ vẫn còn hai chi Lý Dương Côn và
Lý Long Tường đang sống lưu vong làm rạng danh cho tiên tổ họ Lý ở Cao Ly(25). Tháp
Phật Tích (do Lý Thánh Tông) và tháp đá chùa Dạm (sau này do Lý Nhân Tông – con
trai Lý Thánh Tông xây dựng) ở Bắc Ninh ngoài giá trị về tâm linh tại quê hương
triều Lý, hiện những công trình điêu khắc đá này là những tác phẩm điêu khắc
Phật giáo đặc săc, là niềm tự hào của nền mỹ thuật cổ Việt Nam.
|

Hơn hẳn cha ông minh, dù quan tâm nhiều tới Phật
giáo, nhưng Lý Thánh Tông cũng nhận thấy sự tích cực của Nho giáo, bằng công
trình khởi từ năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ hai (1070) ở cửa Nam hoàng
thành Đại Hưng, đây chính là công trình văn hoá tiêu biểu không chỉ của kinh đô
Thăng long nghìn năm văn hiến, mà còn của cả nước Đại Việt thời Lý- Trần thịnh
trị là Văn Miếu. Việc này không những tạo ra một tiền lệ cho một quốc gia trọng
học hành và thi cử, mà còn hướng cho
thái tử Càn Đức được học hành khuôn phép, sử sách còn ghi: "Mùa thu, tháng tám, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công,
và tứ phối, vẻ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học
ở đây").
Cũng tại vùng đất ven biển phía đông Bắc bộ, năm
1149 con của vua Lý Thần Tông là Lý Anh Tông cho thành lập trang Vân Đồn để
buôn bán với người nước ngoài, mở ra sự hình thành và phát triển
của hệ thống thương cảng Vân Đồn - cánh cửa hội nhập đầu tiên của
nước ta, trong giao thương với các nước trong khu vực Đông Á và thế giới như:
Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia... Thương cảng Vân Đồn thịnh
vượng suốt ba triều đại là: Lý - Trần – Lê(sơ) (26).
Sử cũ khen Lý Thánh Tông: "Khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng
việc làm ruộng, xót kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu
lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng
gọi là bậc vua tốt"!
Lý gia đệ tam đế là người thừa hưởng những kiến
thức và tinh túy của ông cha. Ông học rộng biết nhiều, nắm vững lịch sử dân
tộc, lại dùng “lý” để suy xét sự vật, nên không có gì là quá ngạc nhiên khi triều
đại nhà Lý, từ Lý Công Uẩn cho tới Lý Thánh Tông (kể cả đời con cháu) đã biết
ứng dụng những kiến thức “thông Thiên
văn, tường Địa lý” để trị quốc và bình thiên hạ. Lý gia đệ tam đế đã am
hiểu sâu sắc địa lý từng vùng và địa phương, ông thấy tầm quan trọng của dẻo
đất ven biển phía đông Bắc bộ và đưa ra những kế sách đúng đắn và hợp lý. Đấy
là kết tinh sự sáng tạo của việc quan sát sự vật theo “lý” (sự thông hiểu vạn
vật một cách sâu sắc), ở đây không có gì là thần bí. Kết quả là nhà Lý đã dược
người đời lưu danh muôn thửa và để lại những di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể có giá trị lớn, trường tồn cả về vật chất và tinh thần cho người dân Việt
từ xưa cho mãi về sau.
Tài liệu dẫn và tham khảo
1.
Lê Văn
Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, “Đại
Việt sử ký toàn thư” – Kỷ nhà Lý - NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1972.
2.
Lê Văn
Lan - “Lý Thánh Tông” Nguồn: http://www.hanoi.gov.vn/hnportal/
3.
Đặng
Xuân Bảng - “Sử học bị khảo” - Viện
sử học & Nhà xuất bản Văn hóa thông tin - Hà Nội 1997, trang 306.
4.
Vũ Quỳnh - Kiều Phú”Lĩnh
Nam
chích quái”- Nhà xuất bản Văn học 1990, chuyện Chử Đồng Tử.
5.
Phan
Huy Lê, Nguyễn Quang Ngọc, Phan Đại Doãn-
“Chiến thắng Bạch Đằng 938 và 1288”-
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân -1988.
6.
Trịnh
Minh Hiên chủ biên - “Ngược dòng thời
gian”- Nhà xuất bản Hải Phòng 2008, trang.97- 100.
7.
Trịnh
Minh Hiên, Đồng Thị Hoàn “Thành Nêlê, Đồ
Sơn thời Asoka” – Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa 2009, trang 5-75.
8.
Viện
Khảo Cổ Học “Trống Đông-Sơn”, Hà Nội 1987, trang 131
9.
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
(1)Lý gia đệ tam đế là
tên của Lý Thánh Tông (李聖宗; 1023 – 1072), là vị vua thứ ba của nhà Lý(1054 đến 1072). Ông tên thật là Lý Nhật Tôn (李日尊), sinh tại Thăng Long. Lý Thánh Tông là người tài kiêm
văn võ, là một minh quân có nhiều đức độ. Ông tận tụy công
việc, thương dân như con, đối xử tốt với tù nhân. Công lao của ông là đặt quốc hiệu Đại Việt, xây dựng Văn Miếu,
phá Tống (1060) và bình Chiêm
(1069), lấy được ba châu của Chiêm Thành.
(2) Charles Wheeler -“Một vai trò hợp lý của biển đối với lịch sử Việt Nam? Xã
hội duyên hải trong thế giới mậu dịch của Hội An, 1550-1830”- Ngô Bắc dịch. Nguồn:
http://www.gio-o.com/NgoBacTaiLieuBienVN.htm
(3)The Birth of Vietnam (Berkeley , 1985), trang 6. Xem sự giải
thích của tác giả về “định hướng trông ra biển” nơi phần dẫn nhập của ông, rải rác (passim) từ trang 1-41.
Về một tuyển tập các sự trình bày chứng minh tính trung tâm của nước trong văn
hóa Việt Nam, xem một loạt các bài khảo luận của Huỳnh Sanh Thông, trong
Vietnam Forum (Hamden, CT)
(4)Văn hóa Đông Sơn phát
lộ nhiều ở các khu vực ven biển và các họa tiết trền các di vật trống, thạp,
rìu, kiếm… thuộc Văn hóa Đông Sơn phần nhiều phản ánh cuộc sống ngư nghiệp với
hình vẽ thuyền và các con vật như lạc, cò, nông, trâu…là những con vật sống ở
sông biển.
(5)Sách “Thủy Kinh” Lịch Đạo Nguyên (chú), Dương Thủ Kính,
Hùng Hội Trinh (sớ), Đoàn Hy Trọng (điểm hiệu), Trần Kiều Dịch (phúc hiệu),
Người biên dịch: Nguyễn Bá Mão. Đây là một bộ sách viết về hệ thống sông ngòi
thời cổ đại của Trung Quốc. Sách do người thời Tam Quốc biên soạn. Quyển sách
này biên dịch từ phần sông Giang trở xuống vì phần này có liên quan đến địa lý
và lịch sử Việt Nam, có thể giúp ích phần nào cho việc nghiên cứu, tham khảo
của các nhà địa lý học, các nhà sử học của nước ta.
(6)”Thiền
Uyển Tập Anh” là một cuốn sách cổ của Phật giáo Việt Nam ghi lại các tông phái
Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến
thời Đinh, Lê, Ly một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần. Đây là tác
phẩm không những có giá trị về lịch sử Phật giáo mà còn là một tác phẩm truyện
ký có giá trị về mặt văn học, triết học và văn hóa dân gian. Cho đến nay chúng
ta chỉ có bản trùng san in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) thời Hậu Lê là bản in
cổ nhất được hòa thượng Thích Như Tri và các môn đồ khắc in ở chùa Tiên Sơn (Từ
Sơn, Hà Bắc). Hiện sách không ghi rõ tên soạn giả nhưng qua các tài liệu tham
khảo chúng ta có thể xác định tác phẩm này đã được Thông Biên Thiền sư khởi
thảo từ thời Lý đến Biên Tài, Thường Chiếu, Thần Nghi. Trải qua một quá trình
biên soạn rồi đến Thiền sư Ẩn không là người hoàn tất việc biên soạn cuối cùng.
Tác giả Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga Viện Hán – Nôm dịch và chú giải, Nhà xuất
bản Văn học 1990.(Dịch theo nguyên bản chữ Hán Trùng San), Khắc in năm Vĩnh
Thịnh thứ 11 (1715)
(7) Vùng đất này xưa được mang Hải Tần, từ khi Trưng Vương phong Lê Chân chức “Chưởng quản binh quyền nội bộ” - trấn
ải vùng Hải Tần, sau này còn gọi là Hải
Đông hoặc xứ Đông là một phần đất Hải Dương, Quảng Ninh và Hải Phòng hiện nay.
(7a) Lịch sử Phật giáo chép: Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, các môn đệ tìm thấy trong tro của Người có rất nhiều tinh thể
trong suốt, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, được
84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Các đệ tử mang
xá lị Đức Thế Tôn đi truyền bá đạo Phật ra các vùng xung quanh. Đến thế kỷ thứ III
TCN, vua Asoka (A dục vương) đã xây đến hơn 8 vạn tháp để thờ Xá lị đức Phật.
Hiện, tượng Phật vàng ở thủ đô Bangkok
của Thái Lan
có đến 7 hạt xá lị. Tại Việt Nam, xá lợi của Phật Thích Ca được Đại đức Narada
Mahathera, tọa chủ chùa Vajirarama ở Sri Lanka
tặng năm 1953 và được thờ tại Chùa Xá Lợi TP Hồ Chí Minh. Trong vườn tháp Huệ Quang trên núi Yên Tử,
Việt Nam, có ngọn tháp tổ 9 tầng bằng đá là nơi thờ xá lị vua Trần Nhân Tông - vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
(8)“Đồ Sơn Bát Vịnh”, còn ghi lại ở cuốn gia phả của họ
Hoàng ở Đồ Sơn bằng chữ Nho của tác giả Hoàng Xuân Hoàn (hoặc còn gọi là Hoàng
Văn Hoàn hay Hoàng Văn Hoán hiệu là Miễn Trai) được vua Minh Mạng ban cho 6 hốt
bạc và biển ngạch là “Hiếu Tử”, bổ dụng ông làm quan giáo thụ (là giáo chức phụ
trách việc học của phủ Kiến Thụy). Tác giả là con thứ của tiến sỹ Hoàng Xuân
Triêm làm quan dưới triều Lê Hiển Tông và Lê Chiêu Thống, người xã Ngọc Xuyên,
tổng Đồ Sơn, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Hoàng Xuân Triêm làm chức Tán tương
Quân vụ cho Quận công Đinh Tích Nhưỡng – là Đô đốc Đông quân đóng dinh ở Hải
Dương. Trong số tám bài thơ thì có hai bài: bài thứ năm có tên là "Tháp Sơn
Hoài Cổ" nói về tháp A - Dục vương (Asoka) đã được dựng ở Đồ Sơn và đã
được cụ Nguyễn Duyên Niên dịch ra tiếng Việt như sau:
Phiên âm:
“Cổ tháp di khư loạn thảo đôi
Dục Vương khứ hậu ủy yên đồi!
Thiên chung bảo khí minh lưu thủy,
Cửu cấp phù đồ hóa kiếp hôi.
Tiều tử ỷ kha miên thạch đắng.
Mục nhi khu độc há sơn ôi.
Đăng cao dục hội sơn Tăng giảng,
Hà xứ chung thanh khấu nhất hồi”.
|
Dịch thơ:
“Núi Tháp nhớ
xưa”
“Nền tháp xưa kia cỏ mọc dày,
Dục Vưong đi khỏi cảnh hoang ngay.
Muôn cân chuông Phật vang sông réo,
Chín đợt Tháp cao hóa bụi bay.
Dựa búa ông tiều ngơi dốc nọ,
Xua trâu chú mục xuống đồi này.
Lên cao muốn gặp sư trò truyện,
Chuông thỉnh một hồi sát nẻo đây.”
|
(9)Tháp
Tường Long được đặt tại đỉnh núi Mẫu Sơn (núi Ngọc) trên một diện tích chừng
trên 1000m2; cao 91,7m so với mặt biển.
(10)“Việt Sử lược’cho rằng: Lý
Thánh Tông đặt tên Tường Long cho tháp Đồ Sơn khi thấy rồng vàng xuất hiện ở điện Trường Xuân;
một truyền thuyết khác lại cho rằng thế kỷ thứ III TCN, vị vua Asoka (Ấn Độ) đã
từng cử đoàn truyền giáo đạo Phật sang và xây dựng bảo tháp tại Nêlê (là tên cũ
của Đồ Sơn) vì vậy đức vua Lý Thánh Tông đã mơ thấy Đức Phật A Di Đà dùng thần
thông đưa tới Đồ Sơn và đọc cho hai câu kệ:
“Tường Long hiện trung hải
Lôi động khởi phong đăng”
Nghĩa là: Rồng lành xuất hiện ở trên biển.Vì vậy đế
vương quyết định cho phục dựng lại bảo tháp tại Đồ Sơn.
(11)Vào đầu năm 1978, Viện khảo cổ học kết hợp với Sở văn hoá
Thông tin Hải Phòng tiến hành khai quật Tháp Tường Long lần thứ nhất nhằm tìm
hiểu về kiến trúc thời Lý ở Hải Phòng. Phụ trách cuộc khai quật này là nhà khảo
cổ học Trịnh Cao Tưởng; Tiếp theo đó, năm 1998 tháp được khai quật lần thứ hai
do nhà khảo cổ học Trịnh Minh Hiên phụ trách.
(12)Sách
“Lĩnh Nam
Chích Quái” của Vũ Quỳnh chép: “Truyện Đầm Nhất Dạ” nhân vật Tiên Dung và Chử
Đồng Tử đã chứng minh sự có mặt của đạo Phật vào đời Hùng Vương thế kỷ III TCN.
(Triều đại 18 vua Hùng kể từ 2879 - 257 TCN - Thục An Dương Vương). Hai vợ
chồng Tiên Dung và Chử Đồng Tử, sau khi bị vua cha đuổi ra khỏi kinh thành, bèn
lập ra cái chợ để buôn bán. Ngôi chợ này vẫn thường có các thương nhân ngoại
quốc lui tới. Trong truyện có nói rõ là hai vợ chồng gặp một đại thương gia
dùng thuyền để đi buôn và nói: "Quý
nhân bỏ một dật vàng ra ngoài biển mua vật quý, sang năm có thể thành mười
dật". Hai vợ chồng bàn với nhau rồi đồng ý. Chử
Đồng Tử đã cùng với đại thương gia đi ra biển buôn bán. Ngoài biển có hòn đảo
tên là Quỳnh Viên (có sách ghi là Quỳnh Vi). Nơi đây có một am và có một vị
tăng sĩ tên là Phật Quang (có sách ghi là Ngưỡng Quang). Người đại thương gia
và Chử Đồng Tử đã ghé thuyền vào đảo để lấy nước ngọt. Dịp này, Chử Đồng Tử
được vị tăng sĩ Phật Quang thuyết pháp cho nghe nên giác ngộ và được truyền
pháp khí là “chiếc gậy” và “cái nón lá” rồi bảo rằng: "những cái ấy
làm chìa khóa cho mọi năng lực thần bí". Chử Đồng Tử có phép khí thần
thông nên bỏ nghề buôn, rồi đưa thoi vàng cho người đại thương gia đi buôn và
dặn, khi nào trở về ghé vào am để chở Chử Đồng Tử cùng về với. Khi về, Chử Đồng
Tử đem đạo Phật nói với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ và hai vợ chồng cùng nhất
trí đi tìm thầy học đạo. Sau đó hai vợ chồng đều đắc đạo…”
(13)Theo chiếu dời đô của Lý Công Uẩn về Thành Đại La- Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn
thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993: “…ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng
chầu hổ
phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt
đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng
tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó
là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi
thượng đô kinh sư mãi muôn đời.”
(14)Theo K. W. Taylor: Phật Mã và Nhật Tôn đều được chỉ định làm người kế
ngôi rất sớm trong thời trị vì của vua cha. Cả hai đều được nuôi nấng tại
một cung điện nằm ngoài hoàng thành nơi mà họ có thể quan sát sinh hoạt thường
ngày của người dân Việt Nam. Cả hai đều là các quân nhân và nhà hành
chánh có khả năng và đã được giao phó các công tác khó khăn bởi vua cha nhằm
huấn luyện cho vị thế tương lai của họ như một vị quốc vương, từ việc dẹp yên
các cuộc nổi loạn cho đến việc phán xét các cuộc tranh chấp pháp lý.
Không vị vua nào của triều đại lại được chuẩn bị kỹ lưỡng đến thế để đảm nhận
quyền hành quân vương. Phật Mã đã làm vua từ năm 28 đến năm 54 tuổi và
Nhật Tôn làm vua từ năm 31 đến năm 49 tuổi; chính vì thế, cả hai đã làm vua
trong độ tuổi sung sức nhất trong cuộc đời của họ, và đây hẳn phải là lý do
giải thích được phần nào cho luồng khí lực hãy còn nghe rung chuyển suốt trong
các sử liệu về thời trị vì của họ.
(15)Vị hoàng đế tương lai mới có 5 tuổi đã được
ông nội Thái Tổ đích thân kèm cặp, và đặc biệt là vua cha Thái Tông giáo dưỡng
cẩn trọng trong suốt 27 năm ngồi trên ngôi báu nước Việt của mình, trước khi
trở thành "Lý gia đệ tam đế”- có phần muộn mằn- ở tuổi ba mươi hai. (Trích
Lý Thánh Tông – GS. Lê Văn Lan)
(16)Thủy trình đường biển cổ cũng có nói đến các
cửa biển phía nam cửa Bạch Đằng như cửa An Dương (cửa Cấm), cửa Đồ Sơn, cửa Đa
Ngư (cửa Văn Úc), cửa Thái Bình. Từ những cửa biển đó đều có đường sông đi vào
nội địa và đến Thăng Long.
(17)Theo Từ điển bách khoa mở Wikipedia: A - Dục vương (Asoka Đại
Đế) là một hoàng đế của đế quốc Mauryan (Khổng Tước; 273 - 232 TCN). Sau
một loạt chinh chiến, vua Asoka toàn
thắng và đã cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay
và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo,
ông đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni, tên ông gắn liền với việc lưu
truyền Phật giáo. Ông là vị vua đầu tiên của nước Ấn Độ cổ, thống nhất được một
lãnh thổ vĩ đại, lớn hơn cả Ấn Độ ngày nay.
(18) Những tù nhân lao dịch, sau này đã giúp
Lý Thánh Tông và triều đại sau là của con trai ông là Thái tử Càn Đức (vua Lý
Nhân Tông) xây dựng nhiều công trình kiến trúc mỹ thuật kiệt xuất, tiêu biểu
là:Tháp Phật Tích, Bắc Ninh (Năm 1066, do Lý Thánh Tông xây dựng); tháp Chương Sơn, Nam Định (năm 1108-1117, do Lý Nhân Tông); tháp chùa Dạm, Bắc
Ninh ( năm 1105 do Lý Nhân Tông cho xây dựng 3 cây
tháp đá, hiện còn cột đá chùa Dạm và tượng Phật Adiđà là niềm tự hào của điêu
khác cổ Việt Nam); Tháp và bia “Sùng thiện diên linh” chùa Long Đọi sơn, Hà Nam
do vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128) chỉ đạo xây dựng – bia ca ngợi vua Lý
Nhân Tông trong công cuộc giữ nước và dựng nước, miêu tả đời sống kinh tế và
văn hoá của nhân dân nước Đại Việt thời bấy giờ.
(19)Năm 1049 vua Lý Thái Tông, đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm
ngồi trên tòa sen dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với
bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như
trong chiêm bao, làm toà sen của
Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng xung
quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu.
(20) Theo Thế Anh (nguồn: http://blog.timnhanh.com/giaidapphongthuy/) từ trên ảnh vệ tinh có
thể thấy vị trí Tháp Tường Long, Hải Phòng nằm trên một Long Mạch (Khí Mạch)
lớn. Khí Mạch này chạy ngầm trong lòng đất đến khu vực Suối Rồng (Đồ Sơn), thì
đột khởi vùng lên giống như một con rồng đã ra đến biển lớn, Long Khí cuồn cuộn
di chuyển ra hướng biển tạo thành toàn bộ khu vực nghỉ mát của Đồ Sơn ngày nay
cuối cùng Đầu Rồng đi ngầm dưới biển và cất lên tạo thành đảo Dáu. Đây cũng là
Án Sơn - Hồi Long của Khí Mạch này! Chính tại khu vực Đình Ngọc đã kết phát một
Huyệt Oa! Đối với một đời người, hơn 2000 năm là thời gian quá dài! Nhưng với
một Long Mạch, một thế núi thì lại là thời kỳ quá ngắn. Các vị Thánh Tăng Ấn Độ
thông tuệ xưa đã sớm nhận ra Long Huyệt này! Hình Oa rộng rãi, có thế có lực,
Địa Nhục đầy đặn báo hiệu một vùng Sinh Khí thịnh vượng, bằng chứng là Long Khí
còn tiếp tục chạy thêm một quãng đường dài ra tận ngoài biển lớn. Long Mạch này
nằm trên tuyến Tây Bắc Đông Nam nên dễ dàng đạt được Thế Cục "Tam Nguyên
Bất Bại". Tuy nhiên Huyệt này có một nhược điểm lớn là Tay Long (Nơi có
tháp Tường Long) thấp hơn Tay Hổ và Tay Hổ lại hơi có tư thế doãi ra ngoảnh đi
làm cho Huyệt bị Tán Khí! Hiểu rõ điều này nên các vị Thánh Tăng Ấn Độ xưa và
Vua Lý Thánh Tông đã cho dựng Tháp để Tụ Khí Mạch, tạo uy thế cho Tay Long, Áp
Chế Tay Hổ, để dần dần nơi đây thành một Huyệt Đất quý.
(21) Thực tế là chỉ đến khi nhà
Nguyễn phá tháp Tường Long, chốn này mới ít nhân tài: vương triều Hậu Lê (trước
Nguyễn), mảnh đất Hải Phòng đã đóng góp tới 3 vị trạng nguyên: là Lê Ích Mộc -
Thủy Nguyên;Trần Tất Văn ở An Lão và trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Vĩnh Bảo;
nhưng vẻ vang hơn là có Mạc Đăng Dung ở Kiến Thụy xưng vương đến 7 đời người
Kiến Thụy (Kiến Thụy Hải Phòng xưa là quê hương của các vị vua Mạc
nên vùng này được chú ý xây dựng lộng lẫy trở thành kinh đô thứ hai, được gọi
là Dương Kinh). Có lẽ chỉ sau khi nhà Nguyễn muốn phá các long mạch quan trọng
phía Bắc để đẩy mạnh chiến lược phát triển con người và cung điện cũng như các
cơ sở khác của hoàng triều ở miền Trung, thì khu vực ven biển phía đông Bắc bộ
mới ít xuất hiện những nhân tài kiệt xuất phục vụ cho tổ quốc.
(22) Lý Dương
Côn hiệu là Nguyên Minh, hoàng tử thứ ba, con vua Càn Đức (Lý Nhân Tông), giáo sư Phan Huy Lê cho biết nhiều hậu duệ của Hoàng tử Lý
Dương Côn làm quan trong vương triều Cao Ly. Đời thứ 2 là Lý Lan làm đến chức
Kim tử Quang lộc đại phu Lễ nghi phán thư. Đời thứ 3 là Lý Mậu Trinh làm đến
chức Khuông Tĩnh đại phu Chính đường văn học. Đặc biệt là hậu duệ đời thứ 6 Lý
Nghĩa Mẫn được phong Đại tướng quân, Tây Bắc bộ binh mã sứ…
(23) Năm 1225, Trần Thủ Độ lật đổ
nhà Lý bằng cách đưa cháu là Trần Cảnh vào hầu Lý Chiêu Hoàng, dàn xếp để Trần
Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và nhường ngôi để lập ra nhà Trần. Sau đó Trần Thủ Độ
tiến hành tàn sát con cháu nhà Lý, buộc con cháu nhà Lý đổi qua họ Nguyễn, đày
con cháu nhà Lý đi lên vùng núi non hiểm trở phía bắc. Năm 1226 (tức niên hiệu Kiến Trung thứ hai đời vua Thái Tông nhà Trần),
để bảo toàn tính mạng và lo việc thờ cúng tổ tiên, Lý Long Tường đã mang đồ thờ
cúng, vương miện, áo long bào và thanh Thượng phương bảo kiếm truyền từ đời vua
Lý Thái Tổ cùng sáu ngàn gia thuộc qua cửa biển Đồ Sơn chạy ra biển Đông trên
ba hạm đội. Sau một tháng lênh đênh trên biển, đoàn thuyền gặp bão lớn phải ghé
vào Đài Loan. Khi Lý Long Tường quyết định lên đường thì con trai là Lý Long
Hiền ốm nặng nên phải ở lại cùng 200 gia thuộc. Trên đường đi tiếp đoàn thuyền
bị bão dạt vào Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây
Cao Ly (gần Pusan ngày nay). Tương truyền rằng trước đó vua Cao Tông của Cao Ly
nằm mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lên, vì vậy ông lệnh cho
chính quyền địa phương tiếp đón ân cần, và đồng ý cho Lý Long Tường ở lại dung
thân.
(24)Thời Trần tuy tiêu diệt nhà Lý,
nhưng họ cũng nhìn thấy thế đất quan trọng và truyền thống đánh giặc ngoại xâm
bằng thủy quân của Ngô Quyền, Lê Hoàn, Ngô Lí Tín ở cửa biển Đai Bàng (Đồ Sơn)
và cửa sông Bạch Đằng (Giáp gianh giữa Hải Phòng và Quảng Ninh), điều đó giúp
nhà Trần tạo nên chiến thắng hiển hách quân xâm lược Mông – Nguyên lịch sử.
(25) Theo Trần Đại Sỹ:“Lý Long
Tường sinh năm 1174 (Giáp Ngọ), là con thứ bảy của vua Lý Anh Tông (trị vì
1138-1175) và hiền phi Lê Mỹ Nga. Ông được trần Thái Tông phong chức: Thái sư
Thương trụ quốc, Khai phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô
đốc, tước Kiến Bình vương”- Theo Trần tộc Vạn thế Ngọc phả của dòng dõi Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc
để tại từ đường thuộc thị xã Lãnh Thủy, huyện Chiêu Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung
QuốcNguồn: http://vikool.org/thread8303.html
(26) Di tích Thương cảng Vân Đồn còn chứa đựng dấu ấn của nhà
Trần về chiến công chống ngoại xâm lại vừa có dấu ấn về giao thương, buôn bán.
Thương cảng Vân Đồn được hình thành từ thời Lý đến thời Trần đã phát triển tới
hưng thịnh. Cho thấy tâm nguyện phát triển Văn hóa, Chính trị, Kinh tế của Đại
Việt ở cửa biển phía đông Bắc bộ từ đời Lý- Trần – Lê (sơ) đã được thực hiện và thành công mỹ mãn.
Nhận xét
Đăng nhận xét