Tín ngưỡng tôn thờ Thánh Thần ở Viêt Nam Đồng Thị Hoàn
Tín ngưỡng tôn thờ Thánh Thần ở Viêt Nam
Đồng Thị Hoàn
Phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt và các vị Thánh là Nhân thần hoặc là Thiên thần giáng trần có công với dân với
nước là khá phổ biến. Kể từ thời vua Hùng(1)
dựng nước, nhiều Tổ thần, quốc thần được kính trọng và tôn thờ từ xa xưa đến
nay như: Lạc Long Quân, Âu Cơ, Tản Viên sơn thánh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu
Hạnh, Trần Hưng Đạo… Trải qua
bao triều đại Lý, Trần,
Lê, Nguyễn… và thời nay, những vị có ân đức lớn với dân, với nước đều được nhân dân sủng ái và thờ cúng rất trang trọng. Như vậy, tục thờ cúng các vị có công với
nhân dân dù là Thiên thần, Nhân thần hay Nhiên thần... hoặc đơn giản chỉ là Linh
thần là hiện tượng khá phổ biến. Những nhân vật lịch sử có công lao gắn với người
dân vùng nào, thì nơi ấy được tôn thờ và sùng bái, nhất là khi kinh tế phát triển
thì các lễ làng, lễ xã, lễ tỉnh... cho việc tôn thờ và tế lễ các vị Thánh Thần ngày
càng được tổ chức với nghi thức quy mô và long trọng hơn.
Cũng
như vậy, việc thờ cúng và tế lễ các vị Thánh Mẫu(2) là
văn hóa coi trọng người Mẹ của người Việt. Có thể cho rằng người Việt cổ xưa tổ
chức xã hội nguyên thủy theo chế độ Mẫu hệ. Họ rất tôn trọng giống cái: cái gì
to lớn, quan trọng đều là cái (như: sông cái, cột cái, đũa cái...). Cũng vì thế,
người Việt tôn thờ người Mẹ Âu Cơ, bà là thánh thần, là năng lực siêu nhiên; Và
đạo Mẫu cũng vậy, đó là: Trời - thiên phủ (Mẫu Thiên); Nước - Thủy phủ (Mẫu Thoải),
Nhạc - rừng (Mẫu Sơn trang); Đất - địa phủ (Mẫu Địa)(3);
Các thần linh Thiên nhiên được kết hợp lại trong khái niệm của đạo Mẫu là: Thượng
thiên- Thượng ngàn- Thoải phủ- dụng ý bao hàm cả thiên nhiên, trời đất và thánh
thần. Với cách hiểu “kiếp trước và kiếp sau”, cho nên đến các vị Nhân thần dù có
công với dân, với nước – họ là những nhân vật nữ có thật được kính trọng, tôn
thờ, rồi cũng được nhân dân tôn sùng, thần thánh hóa- truyền thuyết hóa nhân vật,
biến họ trở thành những người con của trời, của đất, của thánh thần... Họ được
giáng thế, để thành những nhân vật có quyền năng tối ưu, để giúp người dân
trong vùng khai hoang, lập ấp, bảo vệ mùa màng, dạy nghề...hoặc đạt những chiến
tích cứu giúp con người vượt qua các thảm họa chiến tranh, dịch bệnh, thiên
tai... Cũng là cách tôn vinh và đề cao các vị Mẫu(4)
trong sự ngưỡng trọng thiên nhiên và quyền năng sinh sôi của người Mẹ trong ý
thức bảo tồn giống nòi.
Nhân gian có câu ca: “Tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ” cho thấy hai đại lễ
lớn của Mẫu thượng thiên- Liễu Hạnh công chúa(5)
vào 3/3; vua cha Bát Hải Động Đình 22/8 và đức Thánh Trần 20/8 là những đại lễ
quan trọng trong hệ thống thờ Tam, Tứ phủ. Ngày hội giỗ Cha, giỗ Mẹ với nghi lễ
hầu bóng (lên đồng) của tín ngưỡng Tam, Tứ Phủ từ lâu đã là nhu cầu tâm linh
không thể thiếu của người Việt Nam, trải rộng từ biên giới Lào Cai (Cam Đường)
Lạng Sơn (Bắc Lệ), lan tỏa xuống các hầu hết các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, rồi lại
trải dài dài xuống bắc miền Trung là hết lãnh thổ của người Việt cổ. Nhưng khi
Nguyễn Hoàng vào miền Trung gây dựng cơ đồ cho nhà Nguyễn và mở mang bờ cõi về
phía Nam (dù văn hóa người Việt không còn thuần Việt từ đầu công nguyên qua
1000 năm Bắc thuộc và thời Lý đã giao thoa với văn hóa Chăm khi vua Lý đi đánh
Chiêm Thành); thì văn hóa thờ Mẫu(6) lại tiếp
tục chặng đường hòa nhập cùng văn hóa Chăm Pa ở đền Hòn Chén- Huế; bà Pô Nưgar ở Nha Trang (truyện Mẫu Thiên Y A Na của Phan Thanh Giản);
Mẫu bà Đen- “Linh Sơn Thánh Mẫu” ở Tây Ninh; Mẫu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc, An
Giang... Điều này càng cho thấy cộng đồng người Việt dù trải qua 100 năm Bắc
thuộc, rồi mở mang bờ cõi xuống phía nam, giao lưu với các nền văn hóa lớn như:
Hán, Phù Nam, Óc Eo, Chăm Pa... họ vẫn luôn giữ truyền thống dân tộc tôn thờ Mẫu
hệ. Đó là các vị Thánh Mẫu: Mẫu Âu Cơ; Mẫu Thượng Thiên- Liễu Hạnh Quỳnh Hoa
công chúa; Mẫu Thượng Ngàn- Quế Hoa công chúa; Mẫu Thoải Cung- Thủy Cung công
chúa...
Tín ngưỡng đạo thờ đạo Mẫu Tam, Tứ Phủ tổ chức theo Âm lịch vào các dịp lễ,
tiết của từng hội làng, hội phủ với nghi lễ lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng).
Các nhà nghiên cứu khẳng định tục lệ hầu đồng làm tôn vinh tín ngưỡng thờ Mẫu
và các vị Thánh, là sự tích hợp các giá trị văn hóa - nghệ thuật dân gian, thể
hiện qua các bài văn chầu, truyện thơ kể sự tích các vị Mẫu và Thánh; qua việc
diễn xướng, hát chầu văn, hầu bóng... Người Việt tin rằng linh hồn của các vị
thần linh sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này được vời đến để nghe lời cầu
nguyện của người đi lễ. Người lên đồng có thể là phụ nữ (bà cốt), đôi khi do
nam giới đảm nhận (ông đồng). Các giá đồng nhảy các điệu múa linh thiêng nhập
theo từng vai diễn hầu. Có từ ít đến 36 giá; hoặc nhiếu đến 72 giá đồng, bao gồm
giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô,... Trong buổi lễ, các
giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn(7)
(hay chầu văn). Hát văn do người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn, người
ở vị trí hầu đồng phải hoá thân thành 36 hay 72 nhân vật với những tâm trạng diễn
xuất khác nhau. Chính vì thế, hát chầu văn tạo nên một khung cảnh âm nhạc tâm linh để
giúp cho người đồng nhập vào vai và gắn kết với những con người vào nơi chốn ở
bên ngoài thế giới của họ. Một buổi hát chầu văn có thể được coi là cuộc hội nhập của thi ca,
âm nhạc, vũ đạo và hội hoạ(8)
mang đậm phong cách dân gian thuần Việt. Theo TS. Frank Proschan- một chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa phi vật
thể của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) “Hơn bất kỳ một quyển sách khô cứng, một bức
tranh hay một bức tượng nào, lên đồng là một bảo tàng sống động. Người Việt đã
triển lãm nền văn hóa Việt Nam cho người Việt và người nước ngoài. Những người
tham gia hầu đồng chính là những người quản lý nhà bảo tàng, những người bảo vệ
cho văn hóa Việt Nam. Việc làm của họ đảm bảo cho các thế hệ tương lai vẫn sẽ
tiếp tục có cơ hội được chiêm ngưỡng những khía cạnh khác nhau của văn hóa Việt
Nam, mà chúng đang dần bị nhạt nhòa đi trong đời sống xã hội hàng ngày, chỉ còn
hiện diện trong điện thần của đạo Mẫu”.
Bản chất con người vốn phải tranh đấu không mệt mỏi trong
cuộc sống sinh tồn. Dù năng lực hoặc tài năng và sự cố gắng nhiều hay ít là bản
năng trực tiếp của từng cá thể con người, nhưng đạt được hiệu quả hay ngược lại
là do rất nhiều yếu tố, trong đó sự may mắn tình cờ của ít hoặc nhiều tập tợp
những phù trợ siêu hình của nhiên nhiên và con người đem lại. Vì thế, ai cũng
nhận thấy có nhiều người thành công do có các cơ hội may mắn – nhưng có rất
đông người thì ngược lại. Chính vì thế, nhiều cá thể là do được truyền thống
gia đình và cộng đồng họ gây dựng niềm tin tín ngưỡng từ nhỏ; nhưng cũng rất
nhiều người sau một thời gian phấn đấu không mệt mỏi mà vẫn không đạt được sự thành
công; họ đành lòng hướng tìm đến sự trú ngụ tâm hồn và gửi gắm niềm tin trong
tín ngưỡng, trong sự hoài vọng vào những khả năng tâm linh kỳ diệu - dù bán tín
bán nghi, để mong sao cho cuộc sống được may mắn hơn trong sự thành công để hướng
tới sự bình an, no đủ, tài lộc dồi dào…
Nhưng hiện nay xã hội lại đang nổi cộm vấn đề “về buôn thần,
bán thánh”; sự tin tưởng mù quáng hay sự lãng phí và xa hoa trong việc tế lễ
trong tín ngưỡng tâm linh... Xét về bản chất, hầu hết các loại hình tôn giáo là
hướng thiện, nhưng vẫn có người và tập thể lợi dụng tôn giáo, họ gây nên sự biến
tướng khôn lường, tạo nên sự cực đoan, khó chấp nhận. Đối với tín ngưỡng thờ Mẫu
và các vị Thánh cũng vậy, về niềm tin, cũng như sự sắp đặt vật phẩm cho các lễ
thức khẩn cầu thánh thần là có tính nguyên tắc và không có gì sai trái. Từ ngàn
đời xưa, các triều đình phong kiến vẫn tổ chức các tế lễ, từ quốc lễ, tỉnh lễ,
xã lễ, làng lễ... hàng năm. Họ tổ chức các lễ cúng nhiên nhiên và thần linh là
mong ước được phù trợ cho mùa màng bội thu, nhân dân được ấm no hạnh phúc. Việc
quy mô và hình thức tổ chức đó thể hiện như thế nào là phải hoàn toàn tùy
thuộc vào từng loại hình tôn giáo tín ngưỡng của cá nhân hay tập thể thực hiện
và được cá nhân ấy, cộng đồng và quốc gia(9)
ấy chấp nhận! Vậy định hướng cho từng cá nhân, tập thể, hay cộng đồng là khó khăn
nếu không phải là hình thức hay ý nghĩ chủ quan duy ý chí của vài cá thể, có đạt
hiệu quả hay không là cả một sự công phu, khéo léo và tinh tế mới thì mới thay
đổi được. Trong đó có việc phổ cập giáo dục trong trường học, các phương tiện
thông tin đại chúng, hay biên soạn các điều luật và nhiều hình thức hợp lý là cần
thiết tại nơi thường tổ chức tế lễ Thánh thần như: đình, chùa, đền, miếu, từ....
Mà vẫn giữ được tinh hoa và cốt cách tốt đẹp của truyền thống văn hóa tín ngưỡng
tôn thờ tổ tiên; đạo Mẫu Tam, Tứ phủ và các vị Thánh của người Việt Nam từ ngàn
đời nay, luôn đơm hoa, kết trái và làm phong phú thêm đời sống tinh thần của
người Việt.
Tài liệu tham khảo:
- http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1o_M%E1%BA%ABu_Vi%E1%BB%87t_Nam
- http://hatvan.vn/forum/archive/index.php/t-80.html
- http://dulichnamdinh.com.vn/viewdetails.aspx?Id=866&AspxAutoDetectCookieSupport=1
- http://vnmusic.com.vn/p999-tin-nguong-tu-phu-nhung-gia-tri-va-hien-thuc.html
- http://ancomgroup.com/PortletBlank.aspx/3F7D2F0BD40E407FAD3215DAB7BB4392/View/Tin-van-hoa/Len_dong-van_hoa_hay_di_doan/?print=886379713
- http://nguoinoitieng.blognhanh.com/2011/01/ai-su-quan-phap-moi-du-hau-ong.html
(1) Qua việc kiểm kê di tích lịch sử và
công tác điền dã năm 1977, bảo tàng Hải Phòng đã phát hiện rất nhiều nơi như:
huyện An Dương, huyện Thủy Nguyên, huyện Kiến Thụy, huyện Cát Hải, quận Kiến
An... thờ vua Hùng và các tướng thời Hùng Vương ở Hải Phòng, riêng huyện Tiên
Lãng có 12 nơi thờ Quý Minh đại vương (vị tướng giỏi thời Hùng Vương); một nơi
(An Tử hạ) thờ vợ vua Hùng Duệ vương. Tại huyện Vĩnh Bảo có 21 ngôi đình, đền,
miếu... thờ vua Hùng thứ 18; Ngoài 2 tướng Cao Sơn. Quý Minh, còn rất nhiều các
vị tướng khác thời Hùng Vương cũng được nhân dân Hải Phòng thờ phụng như Hùng Sỹ,
Quân Cư Sỹ, An Thành, Linh Lang, Cương Nghị... Đặc biệt là ở hang Vua, Minh
Tân, Thủy Nguyên thờ Vua Hùng; ở Quán Khái, Vĩnh Bảo thờ Tản Viên Sơn Thánh,
còn ở Hà Phương, Vĩnh Bảo nhân dân ở đây lại thờ Thục Phán An Dương Vương.
(2) Hiện
nay nghi lễ thờ cúng ở đền, phủ với tín ngưỡng thờ
tam tòa Thánh Mẫu là phổ biến: Mẫu Đệ Nhất (Thiên Phủ). Danh hiệu: Mẫu
thượng thiên. Thiên tiên thánh mẫu, Liễu Hạnh Quỳnh Hoa công chúa, tam thế sinh
hóa, sắc phong Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương Mã Hoàng công chúa; Mẫu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thượng
Ngàn. Sơn Lâm Chúa Tiên, Quế Hoa công chúa, Lê triều công thần, Diệu Tín Diệu
Nghĩa thiền sư, sắc phong Lê Mại Đại Vương; Mẫu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thoải
cung. Thủy Cung công chúa. Bát Hải Động Đình Thần Nữ. Bạch Ngọc Thủy Tinh Xích
Lân Long Nữ công chúa.
(3) Hiện
tượng thờ Thánh Mẫu của người Việt là sự tôn thờ thiên nhiên - là vũ trụ trời đất
gắn liền với đời sống con người, được hội tụ ở bốn vị Thánh Mẫu: Mẫu Thượng
Thiên Mẫu khoác áo đỏ, là hình tượng của mẹ Thiên- là Trời- là sáng tạo ra vạn
vật trong vũ trụ, tạo mưa thuận gió hòa, tạo nguồn sinh lực, hạnh phúc. Mẫu Thượng
Ngàn mặc áo xanh tượng trưng cho tài nguyên rừng núi, vị quản trang mang lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho người dân miền ngược và liên quan đến miền ngược và
biên giới gần núi rừng. Mẫu Thoải mặc đồ xanh: Vị cai quản các sản vật miền
sông nước, mang lại tài nguyên và nguồn nước cho việc sản xuất nông nghiệp và
các vùng sông nước hoặc ven biển, hải đảo.
(Mẫu Địa: gắn với ý thức mong muốn về đất đai để sản xuất, các tài nguyên về đất,
nhưng đến nay được thờ cúng ít dần. Xưa kia nhân dân địa phương vùng đồng bằng
thờ ba vị: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thoải và Mẫu Địa. Khi kinh tế phát triển, giao
thương thương mại giữa miền núi và đồng bằng dễ dàng hơn, người ta lại ít thờ Mẫu
Địa và đưa Mẫu Thượng Ngàn vào thờ.
(4) Đức Thánh mẫu Liễu Hạnh; Vân - Hương Thánh Mẫu, giáng sinh ba lần.
Lần 1 Thánh Mẫu phụng mệnh giáng sinh.- huyện Trấn Sơn Nam, gọi là tỉnh Nam Định
phủ Nghĩa Hưng, Huyện Đại An, xã Trấn Xá; Lần 2 Thánh Mẫu bị đưa xuống thôn Vân Cát, xã An Thái Huyện Thiên Bản,
Phủ Nghĩa Hưng, Tỉnh Nam Định; Lần 3 Thánh Mẫu
xuống tái duyên cùng chàng họ Mai làng Tây Mỗ, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh
Hóa.
(5) Liễu
Hạnh Công chúa là một trong những vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt
Nam, được thờ ở rất nhiều nơi ở Việt Nam như phủ Giầy (Nam Định), phủ Tây Hồ và
đền Sòng Sơn Vọng Từ (Hà Nội), đền Dâu Tam Điệp (Ninh Bình), đền Sòng và đền
Phố Cát (Thanh Hóa), đền Phủ Giày (HCM)... Trong đó, phủ Giầy ở Vụ Bản Nam Định
là nơi quan trọng.
(6) Sự tích mẫu Thượng Thiên- Liễu Hạnh đã có nhiều
truyện kể dân gian về bà, được lưu truyền khá phong phú, được ghi chép lại
trong các sách cổ như “Việt điện u linh”;
sau đó một số trí thức nho học thời phong kiến đã tiến hành ghi chép lại và
sáng tác thêm, điển hình là của Nguyễn Công Trứ, Đoàn Thị Điểm.
(7) Theo báo Nam Định: Trong tác phẩm “Kiến văn tiểu lục” của
Lê Quý Đôn có ghi “Thời Trần có lối hát trước mặt đế vương, gọi là hát chầu”. Rất có thể đây chính là những điệu
hát văn sơ khai nhất. Nghệ nhân dân gian Đào Thị Sại 97 tuổi ở Yên Đồng, Ý Yên,
Nam Định đã bỏ nhiều công sức sưu tầm, biên soạn các làn điệu chầu văn và đã
tìm được 36 điệu văn cổ ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Cụ lại vừa tìm thấy điệu
văn cổ nhất có tên gọi “văn công đồng”, có từ thời vua Trần Nhân Tông. Trong
nghệ thuật hát văn, có hệ thống làn điệu phong phú, tinh tế, giàu sắc thái biểu
cảm: Bỉ, Miễu, Phú Bình, Phú Chênh, Phú Nói, Phú Rầu, Đưa Thơ, Vãn, Dọc, Cờn,
Hãm và Dồn. Xen kẽ những đoạn hát là nhạc, gọi là lưu không. Các điệu chầu văn
như hát Cờn, hát Phú, hát Dọc, hát Xá…, mỗi điệu đòi hỏi một kỹ thuật
riêng, trong đó hát Phú là khó nhất, vừa lấy hơi sâu vừa phải giữ hơi dài, hát
liên tục, nối nhanh các điệu với nhau để tránh rời rạc và phải kết hợp trống,
phách, nhị…Chầu văn xưa kia được lưu hành chủ yếu trong không gian các đền, miếu,
phủ và được phổ biến tại các lễ hội truyền thống trong cả nước. Trong quá trình
hình thành, phát triển, chầu văn được bổ sung, giao thoa các làn điệu của các
thể loại âm nhạc truyền thống khác. Nhạc khí chủ đạo của hát văn là đàn nguyệt,
và bên cạnh nó là phách, cảnh, sênh, trống chầu, chuông, trống…Hình thành trên các lối ngâm truyền thống, có tiết tấu và cao độ rõ ràng phụ
thuộc vào lời thơ, hát văn không những hình thành nên những liên khúc có khả
năng thể hiện những nội dung lớn của huyền thoại một cách sinh động mà nó còn
tiếp thu thâu nhập những nét đẹp của dân ca các miền để làm phong phú sự thể hiện
của mình; Múa trong lên đồng còn gọi là múa thiêng, thể hiện niềm kính trọng đối
với các thánh mẫu và các vị thần linh. Múa thiêng lên đồng xây dựng các hình tượng
thần linh và một tiên giới giữa cõi trần. Trong lên đồng, múa thiêng mang đầy đủ
các hình thức thể hiện của ngôn ngữ múa như: múa tính cách (thể hiện rất rõ
tính cách khá riêng biệt của từng vị thần linh), múa trang trí (chú trọng đến
ngôn ngữ tạo hình, vươn lên đến cái đẹp), múa mô phỏng (cưỡi ngựa, ngã ngựa,
chèo thuyền, quảy hàng),…Nếu như ta đến một hội làng, ta sẽ thật phấn chấn khi
gặp một không gian rực rỡ sắc màu của cờ phướn, trang phục, xe kiệu…thì ta sẽ
còn ngạc nhiên hơn khi đến xem một buổi lên đồng. Lên đồng có bao nhiêu giá
(thường lên mươi, mười lăm giá; nhưng nếu lên đầy đủ có thể lên tới hàng trăm
giá), thì có bấy nhiêu trang phục và đi kèm với các trang phục này là các khăn
chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng nữa. Rồi đèn, nến, rồi lễ vật, và các trang trí nhiều
khi tỏ rõ sự phô trương. Có lẽ vì thế mà các hội làng và các buổi lên đồng thường
gây nhiều cảm hứng cho các họa sĩ.
(9) Nhiều nghi thức tế lễ đã trở thành truyền thống hay bản năng, hay niềm tin
sắt đá, ngấm sâu vào ý thức từng cá thể, tập thể, hoặc cả cộng đồng cư dân một
hay nhiều vùng.
Nhận xét
Đăng nhận xét