TÌM HIỂU ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NGƯỜI HẢI PHÒNG(8) Đồng Thị Hoàn – Hội KH Lịch sử HP

TÌM HIỂU ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NGƯỜI HẢI PHÒNG(8)
Đồng Thị Hoàn – Hội KH Lịch sử HP

Tôi rất tâm đắc lời nhận xét của giáo sư xã hội học P. Therborn - Đại học Goteborg Thụy Điển trao đổi với nhà văn hóa Hữu Ngọc, khi tìm hiểu về tâm tính người Thụy Điển. Theo ông: “…trong lĩnh vực về các vấn đề như: tính cách dân tộc, tâm lý dân tộc, bản sắc dân tộc, truyền thống dân tộc, tính dân tộc... là phải hết sức thận trọng, nếu không sẽ đi đến khiên cưỡng, gán ghép, rơi vào đầu óc chủng tộc; đây là một lĩnh vực rất tương đối, thay đổi tùy từng thời kỳ lịch sử, từng vùng, và cả từng cá nhân nữa….”( trích dẫn bài viết “Tính cách Việt ” - nhà văn hóa Hữu Ngọc, Nguồn: Web chungta.com)
Tìm hiểu về phong tục, nêu đặc điểm, tính cách của người Việt Nam nói chung và vùng miền nói riêng, đã được nhiều tác giả xưa nay nghiên cứu như: “Đồng Khánh dư địa chí”của triều Nguyễn; “Việt Nam Phong tục’, Phan Kế Bính, Đào Duy Anh  trong Việt Nam văn hóa sử cương”; “Văn minh Việt Nam”- Nguyễn Văn Huyên; "Con người Việt Nam: một số vấn đề cần nghiên cứu" của Trần Văn Giàu…. Sách “Đồng Khánh dư địa chí”, mục phong tục đã nêu đặc điểm từng vùng miền, cụ thể đến từng phủ huyện. Tác giả Phan Kế Bính trong “Việt Nam phong tục” đã tập hợp nhiều đặc điểm, phong tục tốt xấu của người Việt; nhiều đặc điểm còn lưu đến ngày nay như; trọng học hành mà không trọng nghề nghiệp, buôn bán (5 yếu điểm: không trọng buôn bán; không dám đi xa; không thành thật; không kiên nhẫn; phù hoa, sĩ diện). Sau này tác giả Nguyễn Văn Huyên, cũng đã chú ý chỉ ra những hạn chế trong nghiên cứu con người Việt Nam giai đoạn vừa qua, ông nhận xét rằng: những nghiên cứu này thể hiện quan niệm giản đơn, nghèo nàn trong việc tiếp cận, mang tính suy luận nhiều hơn là điều tra thực tế, thực nghiệm.
Năm 2007 trong tọa đàmNhận diện lại tính cách người Việt ”, do tạp chí Tia Sáng đã thu hút được nhiều học giả uy tín như Nguyên Ngọc; Hoàng Tụy…tuy dè dặt nhưng đã nêu ra được nhiều yếu điểm của Người Việt dù gần đây cố GS Trần Quốc Vượng, cố Giáo sư Cao Xuân Hạo và đặc biệt, cố Giáo sư Trần Đình Hượu với công trình “Đến hiện đại từ truyền thống” đã có nghiên cứu về vấn đề này.
Gần đây nhất là tháng 3. 2009, viện Triết học Việt Nam đã kết hợp cùng CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình tổ chức hội thảo “Đặc điểm tư duy và lối sống của người Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế, tại TPHCM. Nhiều học giả về văn hóa và triết học của cả nước đã bàn luận sôi nổi và thẳng thắn về lối sống người Việt hiện nay. Vấn đề đặt ra là phải làm gì để hòa hợp với xã hội hòa nhập trong tương lai. Đã có nhiều ý kiến thẳng thắn của Thạc sĩ Lê Minh Tiến, Giảng viên ĐH Mở TPHCM, Nguyễn Thị Oanh, Luật sư Nguyễn Ngọc Bích; GS.TS Tô Duy Hợp; GS Nguyễn Tài Thư; GS Trần Ngọc Thêm… bất đồng quan điểm về nguyên nhân dẫn đến tâm thế, tư duy và lối sống của người Việt hiện nay nhưng hầu hết các học giả đều cho là: người Việt hiện nay… xấu xí (Trích Việtnamnet).
Để khách quan hơn, tôi xin trích về "Mười đặc điểm của người Việt Nam" của Viện nghiên cứu xã hội Mỹ đánh giá năm 2006 nhằm giúp các doanh nhân Hoa Kỳ sang Việt Nam làm ăn: 1. Cần cù lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng; 2. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động; 3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm); 4. Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận; 5. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học "đến đầu đến đuôi" nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê); 6. Xởi lởi, chiều khách, song không bền; 7. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời); 8. Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện; 9. Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục; 10. Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng)"
Tôi dẫn thêm một nghiên cứu khác, do công ty nghiên cứu thị trường Taylor Nelson Sofres; đã được công bố trên web: http://www.vietnamtourism.edu.vn/.Theo họ, về tổng thể, bản chất người Việt Nam được miêu tả như sau: - Rất tôn trọng các giá trị gia đình và người lớn tuổi; - Có tính dân tộc cao, tháo vát, lạc quan; - Biết chấp nhận cuộc sống như nó vốn có, coi trọng giáo dục và khiêm tốn; - Người Việt Nam đa số có tính tò mò, nhưng lại không ưa phiêu lưu; - Rất quả quyết và bền bỉ, nhưng cũng rất dễ tự ái, và nhìn chung là biết hy sinh; - Dành quá nhiều thời gian lập kế hoạch, nghiền ngẫm ủ ê, ương bướng (hay kiên quyết);- Hay chỉ trích, bắt lỗi, trốn tránh trách nhiệm, và hay sợ mất mặt.
Trên Web ketoảntruong, bài “Ta tự nhìn ta” lại 9 đặc điểm người Việt ta: 1. "Giờ cao su"; 2. Thiếu tự tin và óc phê phán; 3. Bệnh hình thức; 4. Không tiết kiệm; 5. Thiếu trách nhiệm cá nhân, thừa trách nhiệm tập thể; 6. Thể lực kém; 7. Thiếu thực tế; 8. Tinh thần hợp tác làm việc theo team work còn hạn chế; 9. Tác phong công nghiệp kém.
Về người Hải Phòng, theo tôi ngoài những đặc điểm chung (tích cực hay hạn chế) của người Việt Nam, tôi đồng quan điểm, tuy ngắn ngủi với cuốn “Đồng Khánh dư địa chí”: những quận huyện nhiều cư dân sống gần biển ở Hải Phòng, do đặc tính nghề nghiệp chài lứơi, họ sống giản dị, chất phác, đôn hậu nhưng vũ dũng; phong tục người dân chú trọng việc tế lễ thần linh…- Cảm nhận của riêng tôi, có lẽ vì người dân Hải Phòng sinh sống gần biển, nơi đầu sóng ngọn gió, nên họ mạnh mễ, mặn mà hơn những cư dân sống xa biển. Còn từ điển Wikipedia mở thì chi tiết hơn: “Người dân Hải Phòng có đậm dấu ấn của người dân miền biển, cả về hình thể, tính cách, giọng nói và cách sinh hoạt. Nét chung về hình thể người dân thành phố này cao lớn hơn một chút so với các địa phương khác, cả nam và nữ. Tuy vậy, có điều ngạc nhiên là phụ nữ của Hải Phòng khá trắng trẻo, cao. Tính cách người dân ở đây khá phóng khoáng, đơn giản. Tuy nhiên, cách phát âm và giọng nói của người dân Hải Phòng không thanh và tròn vành rõ tiếng như cách phát âm của người Hà Nội, vốn có giọng nói đang được coi là chuẩn mực”
Tập hợp các nghiên cứu sâu về người Hải Phòng xưa, từ truyền thuyêt Hùng Vương; khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Ngô; Đinh; Tiền Lê; Lý; Trần, Lê…, tôi thấy tại vùng đất này, người Hải Phòng xưa, hay người nơi khác đến đây lập nghiệp, xuất hiện nhiều nhân tài quá. Dù vùng đất này đã thay đổi tên nhiều qua nhiều triều đại, từ xứ Đông của Thăng Long xưa, sớm hơn là vùng Hải Tần - thời Hai Bà Trưng; tìm hiểu những thư tịch cổ sớm hơn nữa như: “Lĩnh Nam chích quái” hay “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, họ đều cho rằng vùng đất Hải Phòng thuộc bộ Dương Tuyền (sách Việt sử lược lại cho la là ở xứ Thang Tuyền). Nhưng dù ở triều đại nào, vùng đất này đều sản sinh nhiều nhân tài cho đất nước, nhưng có lẽ chỉ đến ngày nay, quả thật vùng đất này hiếm nhân tài quá.
Nhiều người trong chúng ta có thể còn chứng kiến vùng đất này có những nhà doanh nghiệp giỏi như Sơn Hà; họa sĩ giỏi như Mai Trung Thứ; văn chương giỏi như Nguyên Hồng; nhạc sĩ giỏi như: Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Nguyễn Đình Thi… mà thời nay chưa thấy xuất hiện.
Lùi vào dĩ vãng, sơ điểm lại lịch sử, nhiều thư tịch cổ ghi chép vùng đất Hải Phòng xưa kia có nhiều tướng giỏi thời Hùng Vương giúp vua dựng nước Văn Lang phồn thịnh, hiện vẫn đang được thờ ở rất nhiều nơi trên đất Hải Phòng. Bằng chứng khoa học này là những hiện vật văn hóa rực rỡ trước và sau Đông Sơn ở Kiến An, Thủy Nguyên, tự hào nhất là ngôi mộ thuyền Việt Khê giàu có nổi tiếng ở Phù Ninh, Thủy Nguyên; sớm hơn là di chỉ Tràng Kênh với công xưởng chế tác đồ trang sức (có diện tới hàng chục ngàn m2, độ dày tầng văn hóa đến hơn 2m, chỉ sau 4 lần khai quật hiện vật thu được lên đến hàng ngàn tiêu bản- trích sách “NDTG- T.M.Hiên”); Sớm nữa là văn hóa biển Cái Bèo của người Việt cổ nguyên thủy ở Cát Bà; Sau Đông Sơn dẻo đất An Biên sát biển do nữ tướng Lê Chân tạo lập gắn với khởi nghĩa của Hai Bà Trưng trong truyền thuyết, nhưng khảo cổ học đã phát hiện 1 loạt ngôi mộ cổ ở Thủy Nguyên - chứng minh nơi này từng là trung tâm, văn hóa chính trị thời Bắc thuộc; Đến thời kỳ độc lập tự chủ của Ngô vương Quyền, ông cho lập bản doanh ở Lương Xâm (quận Hải An ngày nay)-xuất hiện bao hiền tài Hải Phòng xưa ra phò vua giúp nước, mở ra nhiều chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt (hiện đang được thờ ở phường Gia Viên và nhiều nơi khác trên đất Hải Phòng); Thời Lý có Đào Lôi ở huyện An Dương làm vẻ vang người dân trong vùng, có nhân vật Tả bộc xạ (quan tước thời Lý ) cung tiến quả chuông Vân Bản, là niềm tự hào của nhân dân Đồ Sơn; Thời Trần, càng có nhiều hiền tài người xứ này giúp Trần Hưng Đạo, lập công 3 lần chiến thắng Mông Nguyên như Vũ Chí Thắng ở Hàng Kênh (giải thích tại sao triều Lê lại cho xây dựng ngôi đình Hàng Kênh có kiến trúc và điêu khắc gỗ tuyệt đẹp còn tồn tại đến ngày nay để tôn vinh từ Ngô Quyền đến Vũ Chí Thắng); Từ nhà Lê trung hưng đến nhà Nguyễn vùng này đều thuộc trấn Hải Dương và sau này là tỉnh Hải Dương (1831). Triều Lê, xứ Đông tự hào vì có đến 3 vị trạng nguyên là Lê Ích Mộc- Thủy Nguyên; Trần Tất Văn ở An Lão và trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Vĩnh Bảo; nhưng vẻ vang hơn là Mạc Đăng Dung ở Kiến Thụy, xưng vương đến 7 đời (Hải Phòng là quê hương của các vị vua Mạc, nên khi ấy Kiến Thụy được chú ý xây dựng lộng lẫy thành kinh đô thứ hai gọi là Dương Kinh). Đến triều Nguyễn rõ rang hơn vì gần với chúng ta rồi, tôi chỉ xin dẫn về nhân vật Bùi Viện (giữa thế kỷ 19), khi triều đình Huế phải nhượng đứt cho Pháp ba tỉnh miền Đông và sáu tỉnh Nam Kì. Trước tình hình đen tối ấy, xuất hiện Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) và Bùi Viện (1839-1878). Bùi Viện đáng được xem là một nhà kinh bang tế thế, là người mở ra lịch sử bang giao Việt-Mỹ thời cận đại, ông quê Thái Bình nhưng có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, được vua Tự Đức giao việc xây dựng một bến cảng bên cửa sông Cấm mang tên Ninh Hải và một căn cứ phòng ngự bờ biển ở liền kế bên, gọi là nha Hải phòng sứ (là tiền thân kinh tế cảng Hải Phòng phát triển và sầm uất, để đến ngày 19/7/1888 chính phủ Pháp ra nghị định thành lập thành phố Hải Phòng ngang hàng với thành phố Hà Nội và thành phố Sài Gòn. Đó thực sự là niềm tự hào của người dân đất Cảng và là sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đô thị hoá các miền đất vùng Duyên hải Bắc Bộ, để hơn 100 năm nay Hải Phòng luôn là thành phố phát triển kinh tế cảng biến, chính trị, văn hóa, xã hội ngang tầm TP HCM và thủ đô Hà Nội Việt Nam (chưa kể từ khi bà Lê Chân mở dẻo đất An Biên, thì vùng đất Thủy Nguyên đã từng là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị- trích kết luận của VT.KCH Tống Trung Tín).
Vậy rõ ràng chỉ vào chính thời điểm này, Hải Phòng đang tụt hậu về mọi mặt, tốc độ kém xa các thành phố mới thành lập. Phải chăng, đã đến lúc người Hải Phòng cần phải biết hạn chế những yếu điểm, phát huy tính tích cực, biết nhìn thấy những lợi ích lâu dài cho nhân dân, cho thành phố, xứng đáng với lớp cha anh từ hàng ngàn năm nay đã ghi danh vào sử sách về vùng đất và con người nơi này.
Xin trân trọng cảm ơn Viện Triết học và LH các KHKT TP Hải Phòng đã tổ chức buổi tọa đàm KH này.

Tài liệu tham khảo:Đồng Khánh địa dư chí”- NXB Thế Giới 2003 (Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philipe Papin dịch); Phan Kế Bính”Việt Nam Phong tục”- NXB Hà Nội 1999; Đào Duy Anh “Việt Nam văn hóa sử cương”- Nxb Hội Nhà văn, 2000; Nguyễn Văn Huyên “Văn minh Việt Nam”-  Nxb. Hội nhà văn, 2005.- 413tr; Trần Văn Giàu: "Con người Việt Nam: một số vấn đề cần nghiên cứu", Tạp chí Nghiên cứu Con người, Số 2-2002; Vũ Khiêu “Nho giáo và phát triển ở Việt Nam”, Nxb Khoa học Xã hội, 1997; Trần Quốc Vượng: "Nho giáo và văn hóa Việt Nam", Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc 2000, tr 501 – 515; Phan Huy Lê: "Việt Nam trong quan hệ với Đông Á và giá trị Đông Á qua tiến trình lịch sử", Nghiên cứu Con người, Số 3-2003 ; Trịnh Minh Hiên “Ngược dòng thời gian”- NXB Hải Phòng 2008; Hữu Ngọc “Tính cách Việt”- Web Chúng ta.com; Hồ Sỹ Quý “Nghiên cứu con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước”- Tạp chí Cộng Sản. Web Chúng ta.com; Hồ Bá Thâm “Mấy vấn đề đặt ra trong việc nghiên cứu con người Việt Nam hiện nay”- Tạp chí Nghiên cứu con người. Web Chúng ta.com; Web việtnamnet.vn; Web Ketoantruong - Connecting knowledge; Web http://www.chungta.com.




(8) Bài tham luận này tôi viết, khi tham gia buổi tọa đàm khoa học do Viên Triết học và Liên hiệp Hội KHKT tp Hải Phòng tổ chức năm 2008 tại 17 Trần Hưng Đạo, tp Hải Phòng.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

HỌ TRỊNH VĨNH BẢO- HẢI PHONG

PHÁT HIỆN MỚI VỀ CHUÔNG CHÙA VÂN BẢN, ĐỒ SƠN, HẢI PHÒNG - Đồng Thị Hồng Hoàn