MỸ THUẬT ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ TP HẢI PHÒNG Đồng Thị Hồng Hoàn
MỸ THUẬT ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ TP HẢI PHÒNG
Đồng Thị Hồng Hoàn
Từ ngàn đời nay, mỹ thuật cổ Việt Nam thể
hiện chủ yếu ở các công trình trang trí Hoàng cung đã bị phá hủy và các cơ sở
tín ngưỡng: đình, đền, miếu, chùa, tranh giấy, tranh lụa… cùng các sản phẩm tiêu dùng, nhưng người
thể hiện đều bị lãng quên vì không được lưu danh cho đời sau, trừ tác giả Bùi
Thị Hý quê Hải Dương (thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng), danh tính của bà được
lưu giữ trân trọng trên hiện
vật gốm cổ Chu Đậu rất có giá trị- hiện đang trưng bày ở bảo tàng Thổ Nhĩ Kỳ*.
Mỹ thuật trang trí ở các cơ sở
tín ngưỡng cổ khu vực đồng bằng sông Hồng và
Hải Phòng, dù trải qua bao biến động lịch sử, từ các triều đại Lý- Trần- Lê-
Nguyễn… còn tồn tại một loạt các di tích mỹ
thuật giá trị- ở những công trình kiến trúc tín ngưỡng như: chùa Dạm, chùa Phật
Tích, chùa Bút Tháp, đình Diềm (Bắc Ninh), Chùa Keo (Thái Bình), tháp Tường
Long, khu di tích Dương Kinh, Đình Hàng Kênh, đình Kiền Bái (Hải Phòng); đền
vua Đinh, vua Lê- nhà thờ Đá Phát Diệm (Ninh Bình); tháp Chương Sơn, chùa Phổ
Minh, đền Trần (Nam Định); chùa Chuông, chùa Thái Lạc (Hưng Yên); tháp Hoa
Yên-Yên Tử, chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh)… Chưa kể nhiều di tích lịch sử văn hóa gắn
với cảnh quan thiên nhiên, càng tăng giá trị của các điểm du lịch như: Hạ Long,
Cát Bà, Đồ Sơn, Tam cốc Bích Động…
Vào thời kỳ chính quyền phong kiến cuối
cùng nhà Nguyễn nhượng bộ chính phủ Pháp thâu tóm quyền hành. Cuối thế kỷ XIX
chính phủ Toàn quyền Đông Dương tổ chức nhiều cuộc thi, triển lãm, các
"đấu xảo" tại Hà Nội (1887), Quốc tế (1888 - 1889), Lyông (1885),
Paris (1990)… Đến năm 1920, chính phủ Pháp lập trường
nghệ thuật thực hành ở Hà Nội nghề: đúc đồng, đồ mộc, chạm bạc, làm ren…Khi trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương được
thành lập ở Hà Nội, đã thu hút được nhiều sinh viên tài năng mỹ thuật đến từ
các các tỉnh thành trên cả nước, họ tiếp thu được nhiều kiến thức giáo dục và
nghề nghiệp mỹ thuật hiện đại. Hiệu trưởng Victor Tardieu
- người có công vận động chính phủ Pháp thành lập trường cao đẳng mỹ
thuật Đông Dương ở Hà Nội qua đời, nhà điêu khắc évariste Jonchère lên thay;
năm 1938 évariste Jonchère muốn hạ cấp trường mỹ thuật “Chỉ đào tạo những thợ
mỹ nghệ”; nhóm hoạ sỹ tâm huyết gồm: Nguyễn Đỗ Cung, Lưu Văn Sìn, Trần Văn Cẩn
(Kiến An, Hải Phòng)… đã lên
tiếng phản đối kịch liệt. Thời kỳ này, bên cạnh những thành tựu về mỹ nghệ trang trí các cơ sở tín ngưỡng và đồ tiêu
dùng theo hướng truyền thống, nhiều học viên tốt nghiệp trường Cao đẳng mỹ
thuật Đông Dương lĩnh hội kiến thức tạo hình hàn lâm phương Tây, kết hợp vốn
văn hóa truyền thống và sự đam mê, tạo trang mới cho mỹ thuật nước nhà, họ hoà
nhập với thế giới tạo hình hiện đại. Kết quả là có nhiều tác giả thành công
trong sáng tạo nghệ thuật, để lại 1 số tên tuổi lớn cho nền mỹ thuật nước nhà
nói chung và đồng bằng sông Hồng- Hải Phòng nói riêng. Sau đây, tôi xin
giới thiệu một số tác giả thành phố Hải Phòng và khu vực đồng bằng sông Hồng,
tốt nghiệp trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương thời Pháp thuộc và trường mỹ
thuật thời kỳ cách mạng:
1. Họa sĩ Mai Trung Thứ (1906-1988) quê làng Do Nha, nay là xã Tân Tiến, huyện An
Dương, Hải Phòng. Năm 1925-1930 ông học khóa I Trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương. Năm 1930, ông được bổ nhiệm dạy ở Trường Quốc học Huế. Năm 1930,
Mai Trung Thứ tham gia trưng bày tranh ở nhiều nước trên thế giới như ở Italia
(Roma 1932, Milan 1934, Naples 1934), Bỉ (Brussels 1936), Mỹ (San Francisco
1937) và Pháp. Nhận lời mời của Chính phủ nước Việt Nam, năm 1974, Mai Trung
Thứ về thăm quê hương sau 38 năm xa cách- cùng nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị
(học trò của ông). Mai Trung Thứ là một nghệ sĩ, một hoạ sĩ lớn của Việt
Nam vào đầu thế kỷ XX.
2. Tô Ngọc Vân (1906-1954) quê Xuân Cầu,
Văn Giang, Hưng Yên. Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
(1926-1931). Ông có tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng cao ở Pháp; ông từng đi
vẽ nhiều nơi như: Phnôm Pênh, Băng Cốc, Huế... Năm 1950 ông phụ trách Trường Mỹ
thuật Việt Bắc; Họa sĩ Tô Ngọc Vân được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I
về văn học nghệ thuật (1996). Tên ông được đặt cho đường phố tại Việt Nam và
cũng được đặt cho một miệng núi lửa trên Sao Thủy.
3. Vũ Cao Đàm (1908-2000), quê Vụ Bản, Nam
Định, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Khoa Điêu khắc (1926-1931).
Ông được nhận học bổng sang Pháp nghiên cứu
và nâng cao kiến thức về tạo hình tại Bảo tàng Louvre. Năm 1946, khi Hồ Chủ
tịch sang thăm Pháp, Vũ Cao Đàm được vinh dự nặn tượng Người. ông là nghệ sĩ
Việt kiều đầu tiên và duy nhất đượcc tạc tượng Hồ Chí Minh. Tác phẩm của ông được trưng bày ở bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam.
4. Họa
sĩ Trần Văn Cẩn (1910-1994) quê Kiến An, Hải Phòng, tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương khóa VI (1931-1936). Năm 1943, ông gia nhập nhóm Trung tâm
nghệ thuật Việt Nam (Foyer de l’ Art Annamite - FARTA) do họa sĩ Lê Văn Đệ sáng
lập, tác phẩm tham dự triển lãm:"Em Thúy" (sơn dầu) và "Gội
đầu" (khắc gỗ) ông được nhận giải nhất. Năm 1946, tác phẩm "Xuống
đồng" của Trần Văn Cẩn cũng được giải nhất tiển lãm toàn quốc. 1954 -1969:
Trần Văn Cẩn làm Hiệu trưởng trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam.
5. Họa sỹ Lê Thị Lựu (1911-1988) quê Thổ
Khối, Thuận An, Bắc Ninh, bà tốt nghiệp Thủ
khoa trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1932, đoạt giải nhất triển lãm
hiệp hội nữ họa sỹ và điêu khắc. Trong 7 năm (1932-1939) bà là giảng viên các
trường có uy tín như: Trường Bưởi, Hàng Bài (Trưng Vương), trường Làm ren, Hàng
Bông(Hà Nội), Mỹ thuật Gia Định(Sài Gòn).
6. Hoàng Tích Trù (1912-2003) quê Phù Lưu,
Từ Sơn, Bắc Ninh. Tốt nghiệp trường cao đẳng
Mỹ thuật Đông Dương(1936-1941), ông là hội viên sáng lập Hội Mỹ thuật
Việt Nam. Trong năm 1957 - 1960, ông giành được 3 giải thưởng tại Triển lãm Mỹ
thuật Toàn quốc và nhận Bằng khen tại triển lãm quốc tế ở Đức, Ba Lan và ấn Độ.
Ông là Viện trưởng viện Mỹ nghệ Hà Nội năm 1970.
7. Họa sỹ Dương Bích Liên (1924-1988), quê
Phú Thị, Mễ Sở, Văn Giang, Hưng Yên. Ông tốt nghiệp cao đẳng Mỹ thuât Đông
Dương khóa XVIII (1944-1945). Năm 1949, ông
là một trong những hoạ sỹ đầu tiên được kết nạp Đảng tại vùng kháng chiến cùng
một ngày với hoạ sỹ Mai Văn Hiến và nhà văn Trần Đăng. Tác phẩm Bác Hồ ở chiến
khu Việt Bắc đoạt giải nhất Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 1980 và hiện được bày
ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Năm 2000, họa sỹ Dương Bích Liên được Nhà nước
phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt II).
8. Họa sỹ Lương Xuân Nhị (1914- 2006) quê ở
huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương khoá
VIII (1932 - 1937); Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam; Huy
chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam; Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục Việt
Nam; Năm 2001, hoạ sĩ Lương Xuân Nhị đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn
học Nghệ thuật đợt I cho các tác phẩm: Đồi cọ (1955); Bên bờ giếng(1958); Chợ
hoa đào(1985)...
9. Họa sỹ Trần Đình Thọ (1919- 2010) quê Phù Hưng, Ân Thi, Hưng
Yên. Ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khoá XIII (1939 -
1944); Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (1955- 1966)- Hiệu
trưởng Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1966 - 1984). Tổng biên tập Tạp chí Mỹ thuật;
Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật.
10. Họa sỹ Pham Viết Song (1917- 2005) quê Vân Bản, Liên Minh, Vụ
Bản, Nam Định. Ông học lớp bàng thính Trường Mỹ thuật Đông Dương (1935 - 1939);
Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam; Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ
thuật Việt Nam. Tác phẩm của ông đã được Giải Ba Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc
năm 1960; Năm 2007 hoạ sĩ Phạm Viết Song đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về
Văn học Nghệ thuật đợt II cho các tác phẩm: Hoàng Lệ Kha ra pháp trường (1960);
Chị Trần Thị Lý bất khuất(1967); Viếng Bác(1969).
11. Họa sỹ Nguyễn Trọng Kiệm (1934-1991) Tốt nghiệp Trường Mỹ thuật khóa kháng chiến tại Việt Bắc (1950 -
1953). Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc, Huy chương Vàng năm 1985 và
Giải Nhì năm 1960; Giải Nhì Triển lãm Mỹ thuật về đề tài lực lượng vũ trang
chiến tranh cách mạng năm 1984; Giải Nhì Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 1991.
Năm 2001 tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I cho các tác
phẩm: Bác Hồ ở Pắc Bó (1984); Rời lều cỏ Bác tiếp tục hành quân (1985); Những
nẻo đường kháng chiến(1960); Xâu kim (1958); Hòa bình xây dụng (1960); Khi đứa
con ra đời(1960); Vật kỷ niệm của người cha(1965); Ghé thăm nhà (1958).
12. Nghệ nhân, họa sĩ Nguyễn Văn Trường, ông sinh năm 1918, theo học khoa Mỹ nghệ
Sơn mài, trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Năm 1955, Hải Phòng giải phóng,
Ông sáng tác hàng loạt những tác phẩm hội họa: Trên bến cảng, Lấn biển, Lê
Chân, Trận Bạch Đằng giang, Hải Phòng chống Mỹ, Tam Bạc, Bác Hồ thăm đảo Cát
Hải, bức khắc họa “Lê Chân” gợi lại không khí thời kỳ nữ tướng Lê Chân về trang
An Biên gây dựng cơ đồ... Còn nhiều tác giả khu vực đồng bằng sông Hồng và Hải
Phòng khác, mà trong khuôn khổ bài viết chưa nêu hết được.
Cách mạng tháng 8/1945 thành công đưa đất
nước vào kỷ nguyên mới, đồng thời cũng mở ra một trang sử mới cho mỹ thuật Việt
Nam nói chung và mỹ thuật đồng bằng sông Hồng nói riêng. Từ những hạt nhân là
một số hoạ sỹ hoạt động bí mật trong những "Tổ chức văn hoá cứu quốc
thời tiền khởi nghĩa ". Vào giai đoạn này cả giới mỹ thuật chung không
chỉ có họa sỹ Hải Phòng và các tỉnh đồng bằng sông Hồng bị cuốn hút vào thể
loại vẽ tranh cổ động, biểu thị ý chí toàn dân quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự
do của Tổ quốc với nhiều chất liệu khác nhau. Các hoạ sỹ, và nhà điêu khắc Hải
Phòng và đồng bằng sông Hồng phải thích ứng hoàn cảnh mới, họ lên đường đến
những nơi nóng bỏng để ghi chép, sáng tác, không ít trong số đó, nhiều tác giả
đã ra đi mà không bao giờ trở lại.
Hiện thực vừa chiến đấu, vừa sản xuất của
quân dân ta thời kỳ cách mạng đã đi vào tranh tượng, vừa động viên mọi người
vượt lên mọi thử thách của chiến tranh, vừa tranh thủ sự đồng tình của thế
giới. Bên cạnh các thể loại: sơn mài, sơn dầu, bột màu, lụa,…; nghệ thuật điêu khắc cũng khởi sắc, đặc biệt là tranh khắc gỗ; thành tựu được thừa
nhận ở triển lãm 10 năm điêu khắc hiện đại Việt Nam (1963 - 1973) với các thể
loại: tượng, phù điêu, chạm khắc... Mỹ thuật XHCN Việt Nam đã phát triển, dẫn
chứng là triển lãm 1956 tại 3 nước XHCN châu á(Trung Quốc, Triều Tiên, Ma Cao),
1959 tại 8 nước XHCN Châu Âu. Triển lãm mỹ thuật Việt Nam luôn giành được cảm
tình của nhân dân thế giới- nhất là các nước trong phe XHCN; Từ năm 1975 hội tụ
thành một dòng chảy lớn mà thành tựu, được ghi nhận bằng vô số những cuộc triển
lãm lớn của cá nhân, của nhóm... Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1980, thực sự
là một cuộc hội tụ lớn của nghệ thuật tạo hình cả nước, một bước tiến nhảy vọt,
bộc lộ tiềm năng sáng tác, hứa hẹn bước phát triển mạnh giai đoạn này cả về mặt
ngôn ngữ nghệ thuật. Các hoạ sỹ tiêu biểu giai đoạn này là những họa sỹ:
Lương Xuân Nhị (Hưng Yên), Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Tư Nghiêm... họ đã góp phần
làm cho mỹ thuật Việt Nam và khu vực đồng bằng sông Hồng có sự phát triển, tìm
tòi, là dấu hiệu của việc bứt phá trong sáng tạo nghệ thuật.
Mỹ thuật Hải Phòng cũng vậy, giai đoạn chuyển
tiếp và sau đó đều đạt được một số thành công đáng khích lệ với 1 số tác giả-
tác phẩm như: Trịnh Lâm(1926): Phong cảnh; Tố Mỹ(1928-2012): Du kích, Cảng cá
máy chai; Nguyễn Hà(1932): Kiều, Đông người, Một mình; Thọ Vân(1937-2001): Sông
Lô, Phố cổ; Nguyễn Mạnh Cường(1938-2008): Người với biển, Làng quê; Trần Đình
Diệu(1938-2004): Tự họa, Chân dung; Trần Văn Trù(1938): Tre, Trên đồng; Lê
Thái(1938): Nắng Tam Bạc, Bác Hồ với công nhân nhà máy xi măng; Duy Lộc(1939):
Vườn xuân, Quán hoa; Vũ Trọng Thuấn(1939): Mùa xuân; Mùa hạ; Phạm Ngọc
Lâm(1940): Ký họa đường Trường Sơn; Lời của biển; Tường Vân(1942- 1987): Chân
dung Tú Quyên, áp phích “Câu chuyện tình yêu”; Nguyễn Khắc Nghi(1943): Chủ
nghĩa phong kiến, Chèo, Cô Tấm; Bùi Nguyên Trường(1943): Vô đề; Gia đình, quê
hương; Sơn Trúc(1944): Sông Cấm, Núi Xi tơ- quê hương anh hùng Núp, ký họa
chiến tranh; La Viết Sinh(1942): Đóng
tàu, Thợ trẻ; Thế Đính(1941): Nghề gốm; Trịnh Thái(1942): Thợ miền biển; Nguyễn
Mạnh(1943-2009) với tác phẩm: Tam Bạc; Quốc Thái(1943):
Buổi sớm, Cát Bà… và nhiều tác phẩm giá
trị của đội ngũ các tác giả mỹ thuật khu vực đồng bằng sông Hồng và Hải Phòng,
nhất là 1 số tác giả trẻ Hải Phòng- họ đang tiếp nối cha anh đóng góp cho nền
mỹ thuật nước nhà ngày càng phong phú và sinh động. Một tác giả gắn bó và thành
công với đề tài chiến tranh và cách mạng là: Hoàng Đình Tài- họa sỹ quân đội, hội viên hội Mỹ thuật
VN, hội viên Hội Mỹ thuật HP, đạt giải nhà nước về VHNT-2007, giải A hội Mỹ
thuật VN-2002, giải B hội Mỹ thuật HN-2002, giải B VHNT bộ Quốc Phòng 1999-2002
như: Chiều Trường Sơn, đất Bazan, Kiếp người, Khát vọng, Miền nhớ, Ngày xuân,
Làng tôi…
Đại hội Đảng thứ 6 (1986) cách mạng đổi mới
chiến lược, mở cửa đất nước, làm bạn với các nước trên thế giới, chuyển dần
sang kinh tế thị trường, hội nhập với nền kinh tế và văn hóa thế giới, giai
đoạn này mỹ thuật chung cả nước có nhiều thuận lợi nhưng gặp phải cũng không ít
thách thức. Các hoạ sỹ, các nhà điêu khắc Hội Mỹ thuật Việt Nam nói chung và
các tỉnh đồng bằng sông Hồng nói riêng trong đó có Hải Phòng đều thấy rõ vai tự
chủ lĩnh hội, bám sát với cuộc sống thực tế, trau dồi nghề nghiệp, tạo dựng
cuộc sống và sáng tác khi có điều kiện để đạt được những tác phẩm giá trị. Ngày
nay mỹ thuật ứng dụng phổ biến trong cuộc sống thường ngày như: tranh, tượng,
cổ động, quảng cáo… nhu
cầu cuộc sống đòi hỏi cái đẹp ngày càng cao. Tuy
vậy, mỗi nghệ sĩ Hải Phòng và khu vực đồng bằng sông Hồng, vẫn cố gắng hết mình
đạt hiệu quả, đồng hành cùng đất nước tạo những thành tựu đáng kể cho mỹ thuật
nước nhà, điển hình là việc xã hội hóa để tổ chức 1 số triển lãm tập thế, nhóm,
cá nhân và các Trại sáng tác điêu khắc quốc tế tại 1 số thành phố trên cả nước
và ở Đồ Sơn, Hải Phòng.
Hiện nay mỹ thuật cả nước có nhiều ưu thế
thuận lợi về cách hoạt động và thu hút được nhiều hướng đi vào đời sống như các
công trình: tượng đài, tượng vườn, tranh- tượng salon…, ở các trung tâm của các thành phố lớn, xuất
hiện nhiều công trình mỹ thuật quy mô, nhiều cuộc triễn lãm đã cùng diễn ra
trong một lúc, triển lãm hội hoạ ngày nay đã trở thành sinh hoạt cập nhật của
xã hội, hàng loạt các phòng tranh mọc lên khắp nơi, nhưng tất cả không phải đều
là tác phẩm giá trị, có thể có nhiều tác phẩm không mang nội dung cụ thể nào,
một phần cũng do cơ chế thị trường và chạy theo lợi nhuận đồng tiền, họ đã đánh
mất đi vẻ đẹp của mỹ thuật chân chính, nhưng chưa phải là tất cả. Có nhiều hoạ
sỹ đã tổ chức cuộc triển lãm của mình ở nước ngoài, họ được hoạ sỹ nước bạn đánh
giá cao và đưa nền mỹ thuật nước nhà lên tầm cao mới. Hiện đã có sự chuyển
hướng để hoà nhập với nhiều giá trị tạo hình hiện đại của nhân loại, mang diện
mạo mới. Mỹ thuật thời hiện đại vẫn đang phát triển, tìm tòi, sáng tạo không
ngừng để làm đẹp cho xã hội, biểu hiện cho trình độ văn hoá - văn minh Việt Nam
nói chung và văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng- Hải Phòng nói riêng. Có nhiều xu
hướng nghệ thuật đương đại với những
dạng thức mới (Intasllation; Performance art; Video art…) đã hoà nhập vào Việt Nam, trong bối cảnh toàn cầu hoá, tiến bộ xã hội, gắn với sự nghiệp phát
triển của đất nước theo hướng tích cực. Cuộc sống con người cơ bản về vật chất
đã đầy đủ, thì nhu cầu về mặt tinh thần của họ càng cao hơn, họ khắt khe hơn
trong việc đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật tạo hình và nhiều lĩnh vực nghệ
thuật khác, chính thế mỹ thuật Việt Nam nói chung và các tỉnh đồng bằng sông
Hồng nói riêng, trong đó có Hải Phòng ngày càng phải phát triển không ngừng
nhằm phục vụ yêu cầu của cuộc sống đương đại.
3.2014
Đồng
Thị Hồng Hoàn
* Một bình gốm được coi là quốc bảo tại
Bảo tàng Topkapi Saray Istanbul. Chiếc bình được mua bảo hiểm 1 triệu USD, có
khắc 13 chữ Hán: "Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý
bút" (Dịch là: Năm Thái Hòa thứ 8 (1450), tại châu Nam Sách, nghệ nhân Bùi
Thị Hý tạo). Bà hiệu là Vọng Nguyệt, nguyên là chủ
trên 10 trang phường gốm. Căn cứ vào tấm bia mộ chí của bà Bùi Thị Hý khắc dựng
ngày 10/10 năm Cảnh Thống (Nhâm Tuất- 1502) được lí trưởng Bùi Đức Nhuận sao
lại năm Bảo Đại (Nhâm Thân -1932) cho biết: Bùi Thị Hý người kì tài hiệu Vọng
Nguyệt, là con gái trưởng của quan Mã Vũ Bùi Đình Nghĩa, cháu 3 đời lão tướng
Bùi Quốc Hưng. Bùi Thị Hý, người phụ nữ tài hoa và là chủ nhân của những lò gốm
Chu Đậu nổi tiếng.
Nhận xét
Đăng nhận xét