HỌ TRỊNH HẢI PHÒNG - Đồng Thi Hồng Hoàn

HỌ TRỊNH HẢI PHÒNG Đồng Thi Hồng Hoàn Trong quá trình hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, mở mang bờ cõi của người Việt, từng xuất hiện một số nhân tài có công với dân với nước như: lập ấp, mở mang đất đai, có ân đức cho dòng họ, cho dân làng của xã, tổng, hoặc cả một vùng miền rộng lớn. Truyền thống thờ cúng và nhớ ơn những người có công với dân, với nước còn in sâu trong các lễ hội và cúng giỗ tổ tiên, dòng họ để tôn vinh những vị Thành Hoàng, tiên công, tổ họ diễn ra hàng năm đã góp phần tạo nên sự quy tụ và liên kết cư dân đồng họ tộc của cả một xóm làng, xã tổng, tỉnh hay nhiều vùng miền khắp nơi trên thế giới. Văn hóa dòng họ thể hiện ở các câu tục ngữ tồn tại bao đời nay như: “uống nước nhớ nguồn” hay “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”..., vì thế mà người Việt luôn đề cao các mối quan hệ gia đình, họ hàng, dòng tộc, đồng hương và truyền thống ý niệm về gốc gác tổ tiên thờ kính, quê hương bản quán, dù trải qua ngàn năm thăng trầm của lịch sử trong quá trình chinh phục thiên nhiên, xây dựng và bảo vệ những thành quả mà ngàn đời tổ tiên người Việt Nam đã góp công gây dựng. I/ HỌ TRỊNH Ở THỦY NGUYÊN 1. Những vị Thành Hoàng làng họ Trịnh ở Thủy Nguyên Tại Hải Phòng cũng như nhiều tỉnh khác của cả nước tồn tại nhiều dòng họ lớn có nhiều công lao với dân với nước như họ Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn, họ Trần, họ Vũ, họ Lê... mang dấu ấn tốt đẹp trong lịch sử bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Điểm đặc biệt là Trịnh tộc có mặt sớm nhất tại Thuỷ Nguyên Hải Phòng. Đó là 3 vị tướng tài họ Trịnh là: Trịnh Thao, Trịnh Thám và Trịnh Mon được ghi chép trong “Ngọc phả Hùng vương”(*) từ thời vua Hùng Duệ Vương- TCN, trong cuộc chiến với giặc Thục, được vua ban thưởng. Đến năm 43- SCN, Hai bà Trưng nổi dậy đánh giặc cứu nước, xuất hiện nữ tướng Lê Chân được Hai bà phong tướng- người có công khai phá trang An Biên, Hải Phòng- nay là khu đô thị chính Hải Phòng ngày nay. Ba ông tổ Trịnh tộc triều đại Hùng Duệ Vương sinh ra ở Thuỷ Nguyên- được minh chứng ở “Ngọc phả triều Hùng” còn lưu tại đình Dực Liễn(**)- tôn thờ anh em họ Trịnh tổng Trịnh Xá Thuỷ Thuyên, Hải Phòng. Trong đó có ghi: “Hoàng đế đã ra sắc chỉ ban thần hiệu cho các vị: Đại dô thành hoàng Linh bảo Uy huệ Quý Minh đại vương, thượng đẳng thần.  Đương cảnh thành hoàng Quảng Độ cư sĩ đại vương.  Đương cảnh thành hoàng Phổ Hộ cư sĩ đại vương.  Đương cảnh thành hoàng Ủng Hộ cư sĩ đại vương. Các sắc phong của các triều đại không thể kể hết. Phê chuẩn cho phụ lão sách An Thọ, An Phú trang Phủ Liễn, tổng Trịnh Xá, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Dương Tuyền thờ tự các vị thần trên. Bản Ngọc phả này sao lại vào ngày 24 tháng 2 năm Quý Mùi, niên hiệu Bảo Đại thứ 16, tại đền Hùng(*). ....Lại nói, ngày ấy ở trang Phù Liễn có một gia đình, chồng là Trịnh Đốc Mẫn, vợ là Hồ Thị Mai. Hai vợ chồng thành tâm làm việc thiện. Sáng ngày 11 năm Mậu Dần, bà Mai thấy động thai, trong màn có ánh sáng đỏ, hương thơm ngào ngạt. Đến giờ Dần ngày 12 sinh ra 1 bọc, được 3 con trai. Con trưởng đặt tên là Trịnh Thao, tên chữ là Huyền Nhân, con thứ tên là Trịnh Thám, tên chữ là Phúc Hoàng, con thứ 3 tên là Trịnh Mom tên chữ là Hùng Đạt. Ba anh em không cần bú mớm mà tự trưởng thành, mới lên 1 đã biết nói biết chạy; 6 tuổi đã cùng trẻ khác chơi trò bày bày đồ thờ tự cúng tế theo đúng lễ nghi. Đến năm 17 tuổi đều đủ tài văn võ, cương cường, dũng mãnh. Vua Hùng thứ 18- tức Hùng Duệ vương, nghe tiếng vời đến nha môn thử tài và cất nhắc 3 ông theo thứ bậc khác nhau. Khi quân Thục đến xâm lược, vua sai các quan lạc hầu đi dẹp, Tản viên Sơn Thánh thống lĩnh các loại quân cùng đánh giặc Thục ở núi Kỳ La. Vua Thục thua to rút chạy về phía Bắc, không dám sang quấy nhiếu nữa. Tin thắng trận báo về triều, Hùng Duệ vương gia phong thêm 3 cấp, ban sắc sai trấn giữ thành đô. Lại ban cho tên hiệu đẹp là: Quảng Hộ, Phổ Hộ, Ủng Hộ để kỷ niệm. Lúc ấy, đất nước thanh bình, nhân dân yên ổn ba ông xin về thăm cha mẹ, nhà vua bằng lòng. Ba ông cùng quân sĩ về quê cũ. Các già làng vui mừng đón tiếp. Với số vàng bạc vua ban thưởng khá nhiều, cha mẹ các ông mở yến tiệc khoản đãi dân làng 3 ngày. Ai ai cũng được hưởng ân huệ. Ba ông lại bỏ tiền mua ruộng dất, lập nhà thờ, đền miếu làm nơi thờ tự. Công việc xong xuôi, ba ông giao lại cho dân làng, rồi rước cha mẹ về kinh đô Phong Châu để dễ việc cúng dưỡng. Đến ngày 12 tháng 5 cả cha mẹ đều từ trần. Ba anh em lo việc tang ma chu đáo và cử tang hết lòng hiếu kính. Về sau, ba ông sinh hạ được trai gái cả thảy 20 người tại đô thành Phong Châu. Ông Trịnh Thao mất ngày 12 tháng 3. Ông Trịnh Thám mất ngày 12 tháng 8. Ông Trịnh Mon mất ngày 12 tháng 11. Trong 5 năm dân trong trang không được yên ổn, người sách An Thọ là Nguyễn Phú Vịnh viết bài vị ba ông Quảng Hộ, Phổ Hộ, Ủng Hộ để thờ cúng. Từ đó dân trang được bình yên, cầu nguyện gì đều được toại nguyện. Người dân An Phú là Đào Văn Thành cũng theo như Nguyễn Phú Vịnh viết bài vị thờ ở miếu do ba ông dựng ngày trước nên cũng được thịnh vượng, an lành, hễ cầu xin điều gì cũng được linh nghiệm. Các sách khác có nhiều người cũng theo gương mà thờ các ngài. Khi vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm có cáo ở đền, ba ông hiển linh xin đi theo ngầm giúp việc quân. Vua đến Diễn Châu cùng quân Chiêm giao chiến, phá được giặc, chúa Chiêm phải dâng đất. Lúc khải hoàn vua truyền lệnh chép thần tích và phong tặng tên hiệu đẹp, thờ cúng lâu dài. Lại miễn tô thuế cho 30 mẫu ruộng của hai sách để lấy tiền đèn nhang ở đền thờ ba ông và ghi vào sổ thờ bách thần của nhà nước(*).” Vậy qua Ngọc phả triều Hùng ta có thể kết luận 3 anh em họ Trịnh là những nhân tài có công với dân, với nước đã được vua Hùng trọng dụng và ban thưởng, hai ông đã về làng ban ân huệ cho gia đình và nhân dân Thuỷ Nguyên; các ông lại có công xây dựng đền, đình, miếu tại đây. Nhưng kể cả sau khi các ông qua đời các ông vẫn tiếp tục hiển linh giúp dân làng an cư, lạc nghiệp, ngầm giúp đỡ vua Lý khi đánh giặc Chiêm Thành, 3 ông có công giúp vua Lý thắng trận. Vua Lý nhớ công ơn nên đã ban cho 3 ông họ Trịnh Thuỷ Nguyên tên hiệu đẹp. . Cho đến hiện nay nhân dân Thuỷ Nguyên hàng năm vẫn tổ chức lễ hội để tôn vinh, thờ cúng 3 ông và thân mẫu của 3 ông họ Trịnh. Tại đình Tam Sơn, Thuỷ Nguyên thờ ông trưởng Trịnh Thao, đã được ông Trịnh Trọng Giữ cung tiến mở rộng đất đai khuôn viên đình. Quá trình sửa chữa và xây dựng nhân dân đã phát hiện hũ chứa rất nhiều tiền cổ của một số triều đại. Trong lĩnh vực khảo cổ, quanh khu vực thờ 3 anh em họ Trịnh cũng đã phát hiện nhiều mộ thuyền cùng thời với vua Hùng, vậy điều này càng khẳng định về khoa học niên đại và dấu vết cổ xưa tại mảnh đất Thuỷ Nguyên, họ Trịnh đã xuất hiện rất sớm. Nhưng đặc biệt là họ Trịnh là những vị có tài, có công, có đức với nhân dân và tổ quốc. Hiện nay cả ba di tích nhân dân Thủy Nguyên và những người tâm đức như ông Trịnh Trọng Giữ đã góp công, góp tiền và góp sức trùng tu và xây dựng lại khang trang và to đẹp hơn. Nhựng điều kỳ lạ là cả 3 di tích này đều được thống nhất quy hoạch, thiết kế, xây dựng trên khuôn viên đồng bộ giống nhau bao gồm: Đình ở giữa thờ các ông Thành Hoàng họ Trịnh; bên phải là Chùa và bên trái là nhà Văn hóa để hàng năm nhân dân tổ chức lễ hội, đón rước, thờ phụng thân phụ, thân mẫu và tôn vinh 3 anh em họ Trịnh ở Thủy Nguyên, Hải Phòng. Điểm đặc biệt hơn là 3 anh em họ Trịnh Thủy Nguyên không những được nhân dân hàng năm tổ chức lễ hội tôn vinh, thờ cúng, mà hàng ngàn đời nay đã được đặt tên cho cả tổng Trịnh Xá bao gồm 10 xã: Kiền Bái, Trịnh Xá, Trinh Hưởng, Đồng Giá, Dực Liễn, Thiên Đông, Phù Liễn, Tam Sơn và thị trấn Núi Đèo tại Thủy Nguyên. Tại đây còn có một cây cầu lớn mang tên họ Trịnh nằm trên quốc lộ 10 chạy Thái Bình- Quảng Ninh. Một điều thú vị hơn nữa là ngay cạnh cây cầu này có một đầm lớn cũng mang trên họ Trịnh- tức là Đầm Trịnh. Tất cả người dân gốc ở đây đều khẳng định nhân dân Thủy Nguyên khi làm bún phải lấy nước ở đây thì bún mới ngon và không bị chua. Như vậy, về mặt tâm, đức, công, danh... ta đều thấy là họ Trịnh phải có công lao và tài đức lắm mới được nhiều triều đại phong cho nhiều mỹ từ; nhân dân Thủy Nguyên ngàn đời tôn thờ và đặt tên cho nhiều địa danh để lưu danh hậu thế. 2. Từ đường họ Trịnh ở Hà Tây, xã Trung Hà, huyện Thủy Nguyên Cũng tại Thủy Nguyên Hải Phòng có một nhánh họ Trịnh cư trú tại thôn Hà Tây, xã Trung Hà, huyện Thủy Nguyên. Họ Trịnh ở đây cùng với vài họ khác có công khai ấp, lập làng, xây chùa, dựng từ đường họ Trịnh. Từ xưa, nhớ ơn công đức dân làng đã tạc tượng người họ Trịnh có công dựng làng, xây dựng đình chùa- họ được phong là tiên công của làng và thờ trong chùa. Cho đến nay, con cháu họ Trịnh vẫn lưu giữ được nhiều sắc phong của các vua nhiều triều đại ban cho đình, chùa, miếu Hà Tây và từ đường họ Trịnh. Cách ngày nay chừng 350 năm, đức tổ họ Trịnh tên là Trịnh Quý Công, tên chữ là Thế Cao, tên thụy là Phúc An Phủ Quân đã từ quan trường, xin về ở ẩn, đã cùng em là Trịnh Thế Công, bỏ quê Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa di cư đến khoảng đất rộng không người ở, gần sông nước để khai hoang lấn bãi bồi. Thoạt kỳ thủy, các cụ tổ họ Trịnh di cư đến làng Xưa, nay là An Lư. Vùng đất Hà Tây thưở ấy, mỗi khi nước triều lên tràn ngập khăp cả khu vực, chỉ trừ ra một vài nơi đất cao và dẫy núi Hương. Sau khi xem xét địa thế xung quanh vùng,chừng 3 đời sau, các cụ Trịnh Thế Thọ, Trịnh Thế Thường, Trịnh Thế Nho chỉ để một người con ở lại khu giếng Huỵnh, còn tất cả chuyển vào khu đất mới, cao ráo, thuận tiền đi lại hơn, rồi lại cùng nhau tiêp tục khai hoang, san gò, lấp trũng, lại đắp đoạn đê từ đầm Quản đến đầu xóm Cống để ngăn nước mặn. Từ đó, các họ khác như họ Lê, họ Phạm… cũng về hội tụ, sinh sống ở Hà Tây. Các cụ Trịnh Thế Thọ, Lê Quang Đại và Phạm Công Khanh là những vị Tiên công đại diện của 3 dòng họ Trịnh - Lê - Phạm đã vận động các con cháu của dòng họ mình, ước chừng được 30 hộ lập làng Hà Tây. Các cụ xin được thành lập làng và được cấp trên chuẩn y cho lập làng. Đó là thôn Hà Tây, xã An Lư, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn. Sự kiện này xảy ra và được ghi nhận vào giữa thế kỷ XVIII. Đến năm 1780 cụ Trịnh Thế Quán cho em là Trịnh Thế Chắt cùng hai con Trịnh Thế Khang,Trịnh Thế Lịch lên lập trại gần sát núi Hương để làm ăn, canh tác (tên xóm Trại có từ thời đó). Còn cụ và con trưởng là Thế Khả,con thứ là Thế Giai ở lại xóm làng, dựng từ đường giữ đất tổ tiên cho hậu thế. Lập được làng là một bước ngoặt lớn cho đời sống vật chât và tinh thần của người Hà Tây. Môi trường tự nhiên tạo cho cuộc sống sinh cơ lập nghiệp đòi hỏi phải đổi thay, cư dân cần có sự trao đổi mua bán. Người thì vào rừng chặt gỗ buôn bè. Kẻ mở cửa hàng bán cho các thuyền buôn qua lại trên sông. Nhiều người bán, lắm kẻ mua. Ở ngã tư sông Giá đã hình thành chợ Hà Tây. Trước đây người Hà Tây chủ yếu làm ruộng, trồng lúa nước, rau mầu, đánh bắt thủy, hải sản. Dần dần, trong dân cư có một bộ phận tách ra sản xuất vật liệu xây dựng, vận tải thủy và buôn bán. Làng Hà Tây có chợ Hà Tây, trên bến, dưới thuyền buôn bán sầm uất. Theo bia “Mở chợ cũ”, thuyền buôn từ Nam Hải, Hải Ninh, Hòn Gai, Cấm Phả, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng và các vùng lân cận đều đến buôn bán. Hàng hóa nhiều loại, lâm thổ sản, hải sản, đồ gốm, giống cây, giống vật nuôi, vải vóc, vât liệu xây dựng v.v… Khi Nguyễn Tri Phương cho quân về xây dựng khu quân sự Bờ Đồn, phía bắc núi Chùa chống Pháp, chợ Hà Tây mới chuyển về làng Trại Kênh, sau gọi là chợ Giá. Nguyễn Tri Phương (1800- 73) người làng Chi Long, huyện Phong Điền, nay thuộc Thừa - Thiên - Huế, đại thần triều Nguyễn, có công chống Pháp, bị thương khi thành Hà Nội thất thủ, tuyệt thực chết năm 1873. Có một tấm bia đá bị lãng quên ở gần khu vực giữa miếu Đôi và bờ sông Giá, nay đã được đưa về bảo quản tại trước sân Từ đường họ Trịnh. Bia bị sứt vỡ ít nhiều, không còn rõ hoa văn trang trí ở trán và diềm bia; 3 mặt có chữ Hán thi mờ, thậm chí có đoạn không còn nhìn thấy chữ. Các cụ trên 80 tuổi nói: đây là bia ghi việc lập chợ Hà Tê. Để rõ đâu là sự thật,chúng tôi đã mời ông Đỗ Tiến Hợp, người xã Lý học, huyện Vĩnh Bảo về tận nơi dịch nội dung chủ yếu của tấm bia. Đây là bia “Mở chợ cũ” sau những năm loạn lạc, cửa cống thông với chợ bị phá vỡ, nước lên xuống chảy rất mạnh chợ không họp được. Đến năm Ất Sửu (1805) mới hàn khẩu được cống; giao thông đi lại dễ dàng. Người ta mới bàn với nhau mở lại chợ cũ. Bia có niên hiệu vua Gia Long thứ 17 ( tức năm 1819). Vào khoảng 400 năm trước, có 4 bà tổ cô họ Trịnh làng Hà Tây đứng ra hưng công xây dựng nhà thờ tổ đầu tiên. Đó là Trịnh Thị Lợi, Trịnh Thị Chói, Trịnh Thị Bột, Trịnh Thị Thúy cùng các con, cháu của các cụ. Lại lập Gia phả- Phủ húy để lại mãi cho con cháu đời sau. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, giặc tràn tới đốt, phá sạch, trong đó có từ đường họ Trịnh làng Hà Tây (1948). May mắn còn giữ lại được cuốn Gia phả- Phủ húy. Sau đó, năm 1958 bà Trần Thị Hấn, dâu trưởng họ Trịnh lại cúng ngôi nhà gỗ lim 3 gian làm nơi thờ tổ. Vào năm 1997, ông Trịnh Văn Nghĩa, trưởng tộc họ Trịnh ở Hà Tây và cũng là 14 đời ở Hà Tây, vận động bà con xây dựng lại từ đường dòng họ trên nền cũ được khang trang như hiện nay, theo hướng đông bắc trông vê núi Hương. Từ lâu họ đã có tộc ước, tộc quy. Con trai từ 18 tuổi trở lên, hàng năm phải đóng quỹ họ. Quỹ này dùng vào việc trợ giúp các gia đình ốm đau, về già, hoạn nạn, đặc biệt thưởng cho các cháu hoc sinh nghèo học giỏi, thi đỗ đại hoc. Con trai, con gái trong họ, dù bao nhiêu đời cũng không được lấy nhau. Ngày giỗ tổ hàng năm 14 tháng Giêng, con cháu xa gần nhớ về giỗ tổ đồng thời cũng là dịp xuân sang nên thăm hỏi, chúc Tết lẫn nhau an khang, thịnh vượng cả năm. Năm 2010, họ Trịnh Hà Tây thống nhât soạn công phu, chi tiết thứ bậc rõ ràng của 14 đời, hơn 700 người từ các cụ tổ xa xưa cho đên ngày nay gọi tên là Đại Đồ Phả, đặt tại từ đường để mọi người xem và tự hào về họ tộc của mình. Vì ngày giỗ tổ được coi là ngày hệ trọng nhất trong năm nên vị tộc trưởng phải triệu tập một cuộc họp tại nhà thờ họ gồm các chi trưởng dòng họ từ ngày mồng 8 tháng Giêng để bàn chuẩn bị cho ngày giỗ tổ 14 tháng Giêng. Kiến trúc nhà Từ đường họ Trịnh làng Hà Tây hiện nay theo lối nhà tiền (trước) có 3 gian, nhà hậu (sau) một gian. Nhưng các con cháu họ Trịnh trong làng hiện nay đã nghĩ, khi có điều kiện kinh tế sẽ xây dựng nhà hậu cũng 3 gian để có kiến trúc mặt bằng hình chữ nhị. Sự trang trí bên trong nhà từ đường họ Trịnh làm ta chú ý: ở giữa gian trong cùng nổi lên bức đại tự với 4 chữ Hán: Phụng Tiên Tư Hiếu (lấy chữ Hiếu để thờ phụng Tổ tiên). Còn ở gian giữa nhà ngoài treo bức đại tự với 4 chữ Hán: Văn Phong Hào Khí (luôn nhớ đến khí phách của cha ông). Và một đôi câu đối có ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng nhưng sâu sắc: Thu thảo phùng xuân chi diệp mậu, Tổ tông bồi đức tứ thời xuân. Tạm dịch : Vào mùa xuân cây cối đâm chồi nẩy lộc Được tổ tiên dạy dỗ, khác nào như 4 mùa đều là mùa xuân. Nhóm tác giả của Hội khoa học lịch sử thành phố Hải Phòng(*) biên soạn cuốn sách xin trân trọng cám ơn Ban lãnh đạo Trịnh tộc Hải Phòng đã tạo điều kiện thuận lợi để giúp đỡ chúng tôi có tư liệu hoàn thành cuốn sách. Chúng tôi cũng vô cùng cám ơn ông Trịnh Trọng Giữ nhà tài trợ - người có sáng kiến gợi ý chúng tôi biên tập cuốn sách này; và các từ đường họ Trịnh đặc biệt là các cụ cao niên họ Trịnh ở mọi miền trên mảnh đất Hải Phòng đã cung cấp những tư liệu vô giá để cuốn sách nhỏ, nhưng ý nghĩa: “họ Trịnh Hải Phòng” ra mắt bạn đọc. Góp phần giới thiệu với thế hệ trẻ, đặc biệt là hậu duệ Trịnh tộc Hải Phòng nói riêng và Việt Nam nói chung về những công lao thầm lặng nhiều thế kỷ của các vị tổ tiên họ Trịnh nơi đây; làm giàu thêm nét đẹp văn hóa vốn vô cùng lâu đời và độc đáo của mảnh đất có các vị Trịnh tổ ở Thủy Nguyên nói riêng và nhiều Trịnh tổ nơi khác ở Hải Phòng với cộng đồng người Việt ở Việt Nam và nước ngoài muốn tìm hiểu và tự hào về Trịnh tộc. Ở Hải Phòng còn có hàng trăm từ đường Trịnh tộc nằm rải rác khắp nơi, nhưng cứ vào dịp giỗ tổ và đầu năm mới, con cháu lại quây quần tụ họp ôn lại truyền thống, dâng hương báo công với tổ tiên … Trong các cuộc chiến tranh vệ quốc, noi gương tốt đẹp của cụ tổ 3 anh em họ Trịnh Thủy Nguyên, bao đời nay khi có giặc là con cháu họ Trịnh lên đường cứu nước. Nhiều người đã hy sinh anh dũng, nhiều người đã để lại một phần xương máu tại chiến trường, nhiều người từ chiến trường trở về đã trở thành cán bộ cấp cao trong quân đội…Con cháu họ Trịnh đã được nhà nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý làm rạng danh dòng họ. Trong lao động xây dựng đất nước, người họ Trịnh đã hăng say, sáng tạo. Trên mảnh đất Hải Phòng hiện đã có trên 100 doanh nghiệp của con cháu họ Trịnh đang thu hút hàng vạn lao động, hàng năm đã tạo nhiều sản phẩm cho xã hội, doanh thu hàng ngàn tỷ đồng, nhà nước đã tặng nhiều danh hiệu : huân chương, bằng khen, cờ thi đua các cấp.. Các con cháu họ Trịnh trong khoa học, nghiên cứu cũng đã có nhiều thành tích , nhiều người là tiến sĩ, giáo sư, kỹ sư trên các lĩnh vực đang làm rạng danh tiên tổ. Trong quản lý đất nước , nhiều người đã trở thành lãnh đạo cấp quậ , cấp thành phố, cấp trung ương…đã là niềm tự hào của một dòng họ. Nhưng quá trình đi khảo sát điền dã và thăm khoảng từ đường Trịnh tộc ở 55 chi nhánh họ Trịnh rải rác ở nhiều làng và 19 tụ điểm dân cư trong thành phố, Chúng tôi được biết sau nhiều năm cùng với biến cố thăng trầm của đất nước. nhiều nhánh họ Trịnh đã mất hoặc thất truyềnn gia phả và lưu lạc tổ tiên. Vì thế hiện nhiều ngành, nhiều chi họ Trịnh đang âm thầm tìm kiếm và băn khoăn về cội nguồn, gia phả dòng họ. Vì thế, chúng tôi rất hi vọng qua cuốn sách này, sẽ là cơ hội, là sợi dây liên kết tình cảm và cơ sở khoa học để nhiều chi Trịnh tộc Hải Phòng và nhiều tỉnh thành khác trên cả nước đang loay hoay tìm về cội nguồn, tìm những chi và ngành của họ đang thất lạc có thể liên kết gia phả và tìm thấy chi họ hoặc một chi tổ của mình dù đã bị thất lạc nhiều năm. Được như thế, sẽ là niềm hạnh phúc lớn không chỉ cho các dòng họ mà cho cả nhà tài trợ cuốn sách và nhóm tác giả chúng tôi mong ước. Rất mong các vị tổ tiên họ Trịnh Hải Phòng và Việt Nam linh thiêng phù hộ để nhiều nhánh Trịnh tộc tìm thấy người thân đồng tộc của mình sau nhiều năm xa cách tụ hội được hậu duệ cùng nguồn cội của mình; để thế hệ trẻ học tập, tu dưỡng phát huy những điều hay lẽ phải tổ tiên Trịnh tộc qua nhiều thế hệ đã tạo cho thế hệ hôm nay những tài sản tinh thần vô giá.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

HỌ TRỊNH VĨNH BẢO- HẢI PHONG

PHÁT HIỆN MỚI VỀ CHUÔNG CHÙA VÂN BẢN, ĐỒ SƠN, HẢI PHÒNG - Đồng Thị Hồng Hoàn